Đang truy cập : 44
Hôm nay : 11176
Tháng hiện tại : 618472
Tổng cộng : 28737720
Suy niệm Chúa nhật 32 TN và các CN
I. HỤNG VỤ LỜI CHÚA
II. SỐNG NIỀM TIN VỀ SỰ SỐNG LẠI
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN
Giakêu là người thu thuế giàu có tại Giêricô. Và như chúng ta đã biết, dân chúng, nhất là những người đạo đức thường khinh bỉ những làm làm nghề thu thuế, nối giáo cho quân đội Rôma để bóc lột đồng bào của mình. Họ thường bị đồng hoá với những kẻ độc ác, bất công và tội lỗi, do đó bị loại trừ khỏi cộng đồng dân Chúa.
Ông Giakêu hẳn đã từng được nghe nói nhiều về Chúa Giêsu. Và quả thực lúc này Chúa Giêsu đã trở thành một nhân vật được đông đảo quần chúng biết đến, vì những lời Ngài giảng dạy và những việc Ngài làm, nhất là về lập trường và thái độ của Ngài. Phúc Âm kể lại: Rất đông người vây quanh Chúa Giêsu khiến cho ông Giakêu muốn được nhìn thấy Ngài nhưng không sao được, vì ông thấp bé. Nhưng ông không chịu thua. Ông chạy lên phía trước, đón đường Chúa và để chắc ăn, ông đã trèo lên một cây sung. Thái độ của Giakêu có thể là vì tò mò nhưng lại cũng là một điều thuận lợi để ông đi vào quan hệ với Chúa Giêsu.
Thế nhưng, Chúa Giêsu vẫn là người đi bước trước. Vừa thấy Giakêu, trước cả khi ông kịp nói lên một lời nào đó, Chúa Giêsu đã ngỏ lời với ông và trong lời ngỏ cùng Giakêu, Ngài đã dành cho ông một ân huệ lớn lao hơn cả điều ông có thể tưởng tượng ra. Ngài ngỏ ý muốn lưu lại tại nhà ông. Đó quả là điều ông không hề nghĩ tới. Ông phải là người hiểu rõ địa vị của ông hơn ai hết, vì ngay cả khi Ngài đến tại nhà ông, thì mọi người vẫn còn lẩm bẩm: Ông này lại đến trọ nhà một kẻ tội lỗi.
Nhưng điều bất ngờ lớn nhất đã xảy ra đó là cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu đã hoàn toàn biến đổi con người ông. Cuộc viếng thăm ấy đã đánh dấu một khúc quanh trong cuộc đời một người thu thuế. Trước cả khi Chúa Giêsu nói một lời nào về tội lỗi của ông, thì ông đã tự động đề ra biện pháp để sửa đổi những lầm lỗi ông đã phạm. Biện pháp đó gồm hai phần: Phần thứ nhất là bố thí cho kẻ khó, và ông bố thí tới nửa phần ba gia tài của ông. Ông làm việc bố thí này hoàn toàn vì lòng đại lượng. Phần thứ hai là đền bù cho những người ông đã gây thiệt hại. Ông sẵn sàng đền bù gấp bốn lần, nghĩa là vượt quá điều luật buộc của người Do Thái, nhưng lại phù hợp với hình phạt của luật Rôma dành cho tội ăn cắp tỏ tường. Ông Giakêu quả là đã có được một sự độ lượng.
Lời Chúa Giêsu kết thúc có một ý nghĩa đặc biệt. Trước hết đó là lời tuyên bố ơn cứu độ được ban cho nhà, nơi Chúa Giêsu lưu lại, dù đó là nhà của Giakêu, người thu thuế. Đồng thời đây cũng là lời đặt ông Giakêu vào lại vị trí của ông trong cộng đồng dân Chúa, trong dòng dõi Abraham. Và cuối cùng Ngài đã mạc khải cho chúng ta chân lý lạ lùng này, đó là Ngài đến tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư đi.
Giakêu đã được gặp Chúa và cuộc gặp gỡ này đã đổi mới cuộc đời ông. Trong sự đổi mới này, ông đã không chỉ trở lại với Chúa mà còn trở lại với anh em, với những người chung quanh, nhất là với những người ông đã làm thiệt hại. Liệu chúng ta đã thực sự gặp gỡ Chúa hay chưa, và nhất là chúng ta đã thực sự đổi mới cuộc đời chúng ta hay chưa. [Mục Lục]
Nhiều người trong chúng ta có một cái nhìn sai lạc về Thiên Chúa. Đối với họ Thiên Chúa thường là một ông cảnh sát đầy quyền năng, luôn đứng bên lề cuộc đời để biên phạt những hành động sai trái. Trong khi đó Đức Kitô đã tỏ lộ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là một người Cha nhân từ hằng yêu thương chăm sóc chúng ta, và đặc biệt Ngài sẵn sàng tha thứ những lầm lỗi của chúng ta. Ngài hằng mong ước cho chúng ta, những người con của Ngài được hạnh phúc.
Sách Khôn Ngoan đã viết: Chúa thương xót mọi người và Ngài nhắm mắt trước những tội lỗi của những kẻ thực lòng sám hối. Lòng nhân từ và thương xót ấy ngày hôm nay được biểu lộ một cách cụ thể qua câu chuyện về ông Giakêu. Ông ta là một người thu thuế giàu có tại Giêricô. Dưới mắt những người Do Thái, thì những kẻ làm nghề thu thuế bị đồng hoá với phường tội lỗi, vì họ tiếp tay với đế quốc Lamã, bóc lột đồng bào của mình, để nuôi sống kẻ thù và làm giàu cho bản thân. Chính vì thế mà họ bị loại trừ khỏi cộng đồng dân Chúa.
Từ lâu Giakêu hẳn thường nghe nói nhiều về Chúa Giêsu và ao ước được gặp gỡ với Người. Vì thế khi hay biết Người sắp đi qua nơi đó, Giakêu đã trèo lên một cây sung vì ông là một người thấp bé, và dân chúng thì lại đông đảo vây quanh Người. Thế rồi, Chúa Giêsu đã nhận ra ông, Ngài nói: Hỡi Giakêu hãy xuống mau vì hôm nay Ta muốn lưu lại tại nhà ngươi.
Hẳn chúng ta sẽ ngạc nhiên trước một lời nói như thế. Ngài đã dành cho ông một vinh dự quá to lớn, phải chăng Ngài đã đảo lộn bậc thang giá trị? Phải chăng Ngài khích lệ những kẻ bóc lột, gian tham và độc ác? Chính Giakêu cũng ngạc nhiên không kém trước tình yêu Ngài dành cho ông. Trong khi mọi người thù ghét ông thì Ngài lại yêu thương ông. Chính tình yêu này đã chuyển hướng cuộc đời ông, đưa ông vào một khúc quanh mới, thắp lên trong tâm hồn ông một ngọn lửa nhiệt thành.
Từ thẳm sâu cõi lòng, ông cảm thấy chính mình cần phải uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi khuyết điểm, đền bù những thiệt hại trong dĩ vãng để xứng đáng với tình thương yêu ấy. Lập tức ông đã quyết định: Thưa Thầy, con sẽ bố thí một nửa phần sản nghiệp của con. Và nếu như con đã làm thiệt hại ai thì con sẽ đền trả gấp bốn. Chúa Giêsu thấu suốt cõi lòng ông, Ngài đã cảm động khi nói với ông: Ngày hôm nay nhà này được ơn cứu độ vì cũng là con cháu Abraham. Chúa Giêsu đã chống lại những thiên kiến của người đời, Ngài đã xác quyết: Con Người đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư đi.
Dù cuộc đời chúng ta có chồng chất tội lỗi, chúng ta đừng vội thất vọng, hãy ngước nhìn Chúa, hãy tìm gặp Ngài với lòng yêu mến chân thành, bởi vì lúc nào Ngài cũng mở rộng vòng tay chờ đón để tha thứ cho chúng ta. [Mục Lục]
Trong cuộc sống, có nhiều người đã thoát xác, đã đổi đời một cách bất ngờ để trở nên tốt lành và thánh thiện.
Phanxicô Borgia đã từ bỏ chức vị tại triều đình khi đứng trước thi thể rữa thối của hoàng hậu Isabella. Phanxicô Xaviê đã trở nên một vị tông đồ Á châu chỉ vì lời Kinh Thánh mà Ignatio không ngừng nhắc đến mỗi khi gặp gỡ: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Magueritte de Cortone đã xa lìa nếp sống tội lỗi và trở nên một vị thánh trước cái chết của người tình. Và ngày hôm nay, ông Giakêu cũng đã thực hiện một cuộc đổi đời, một cuộc thoát xác như thế.
Thực vậy, khi trèo lên cây sung để nhìn xem Chúa Giêsu, có lẽ ông chỉ muốn thoả mãn tính tò mò của mình cứ chẳng có nghĩ ngợi xa xôi gì. Thế nhưng thật bất ngờ là sự việc tưởng như vô nghĩa này đã đưa ông đi rất xa, đánh dấu một khúc quanh, mở ra một huyết mới có tính cách quyết định toàn bộ cuộc đời của ông.
Từ đó chúng ta nhận thấy Chúa thường đến với chúng ta, thường bước vào cuộc đời chúng ta một cách bất ngờ, bằng những con đường đầy bí ẩn, hầu dẫn chúng ta tới những nơi thật xa lạ. Ngài luôn chủ động, đưa ra sáng kiến và chọn lựa chúng ta như lời Ngài đã phán: Không phải các con chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con.
Phần chúng ta là phải nắm lấy cơ hội một cách đúng lúc, chấp nhận sáng kiến của Chúa và cùng bước đi với Ngài trên nẻo đường Ngài đã mở ra. Điều quan trọng đó là đừng lỡ hẹn với Ngài. Bởi vì cơ hội bỏ qua sẽ không bao giờ trở lại.
Nếu như ngày hôm nay, ông Giakêu không muốn xem thấy Chúa hay không đón nhận Ngài đến thăm nhà ông, thì có lẽ đã chẳng xảy ra sự gì, để rồi ông mãi mãi vẫn là một người thu thuế, mải mê làm giàu một cách bất chính. Thế nhưng ngày hôm nay, một con đường mới đã mở ra cho ông, một cuộc sống mới đã bùng lên trong ông và một con người mới được khai sinh nơi cõi lòng ông. Cuộc đổi đời của ông đã diễn ra tức khắc và triệt để.
Tức khắc bởi vì ông không xin được gia hạn, được trì hoãn, và bởi vì ông biết rằng nếu không thực hiện ngay hôm nay, ngay lúc này thì cũng sẽ chẳng bao giờ thực hiện được.
Triệt để bởi vì ông sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả của cuộc hoán cải: chia tài sản cho người nghèo túng, đền bù gấp bốn cho những thiệt hại mình đã gây nên. Cuộc hoán cải nào cũng có cái giá phải trả. Có sẵn lòng trả thì mới là hoán cải thực sự.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã quyết tâm trở lại với Chúa biết bao nhiêu lần, nhưng có lẽ chưa một lần chúng ta đã trở lại thật sự với Ngài. Phải chăng, vì sợ phải trả cái giá đắt ấy mà chúng ta cứ còn trì hoãn, và thoái thác mãi. [Mục Lục]
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mỗi khi đọc câu chuyện ông Giakêu, tôi ngỡ ngàng trước ánh mắt của Chúa Giêsu khi Ngài nhìn lên ông Giakêu trên cây sung. Ánh mắt ấy có sức mạnh kỳ lạ. Ánh mắt ấy chất chứa bao tâm tình. Chỉ trong một ánh mắt cuộc đời Giakêu hoàn toàn biến đổi.
Đó là ánh mắt quan tâm. Chúa Giêsu vào thành Giêricô. Giêricô là một thành phố rộng lớn, người đông đúc, buôn bán sầm uất. Một đám đông lớn đi theo Chúa Giêsu. Trong khi đó ông Giakêu thật bé nhỏ. Nên ông phải leo lên cây sung để nhìn Chúa. Thật lạ lùng. Giữa đám đông mênh mông ấy, Chúa vẫn nhìn thấy ông Giakêu, dù ông thấp lùn. Giữa muôn người, Chúa chỉ tìm Giakêu. Lại còn biết rõ tên ông. Điều đó chứng tỏ Chúa quan tâm tới Giakêu, dù ông bé nhỏ trong một đám đông hỗn độn. Giakêu chắc chắn cảm thấy ấm lòng vì ánh mắt quan tâm của Chúa.
Đó là ánh mắt khiêm nhường. Hãy tưởng tượng cảnh Chúa ngước lên nhìn Giakêu. Chúa nhìn lên. Giakêu nhìn xuống. Thật là một cảnh tượng phi thường. Người có tầm vóc cao lớn phải ngước nhìn lên mới gặp ánh mắt người thấp bé. Thiên Chúa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được phàm nhân. Đấng vô cùng thánh thiện phải ngước mắt nhìn lên mới gặp kẻ tội lỗi tầy trời. Tạo hóa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được thụ tạo. Đấng Cứu Độ phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được cứu. Đấng tha tội phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được thứ tha. Thật là một sự khiêm nhường thẳm sâu. Giakêu chắc chắn phải choáng váng vì ánh mắt khiêm nhường của Chúa.
Đó là ánh mắt tha thứ. Nguyên một việc quan tâm tìm kiếm cũng đã chứng tỏ Chúa tha thứ cho ông rồi. Huống hồ Chúa còn khiêm tốn ngước nhìn lên. Hơn thế nữa Chúa còn ngỏ lời muốn đến thăm nhà ông. Giakêu chưa tìm Chúa thì Chúa đã tìm Giakêu. Giakêu chưa gọi Chúa thì Chúa đã gọi Giakêu. Giakêu chưa mời thì Chúa đã ngỏ ý đến nhà. Giakêu chưa xin lỗi thì Chúa đã tha thứ. Ánh mắt tha thứ mới khoan dung độ lượng và ấm áp làm sao. Giakêu chắc chắn tràn đầy niềm hối cải khi nhìn vào ánh mắt tha thứ của Chúa.
Đó là ánh mắt tin tưởng. Chúa Giêsu nhìn Giakêu bằng ánh mắt tin tưởng. Tin tưởng nên không nhìn về quá khứ mà chỉ hướng về tương lai. Chúa quên hết tội lỗi của ông. Hơn thế nữa Chúa tin rằng ông sẽ nên người tốt. Chúa tin rằng ông sẽ làm lại cuộc đời. Chúa tin vào tương lai của ông. Nên Chúa đã nhìn ông. Nên Chúa tha thứ cho ông. Nên Chúa kết thân với ông. Trước ánh mắt tin tưởng của Chúa, chắc chắn Giakêu sẽ cương quyết làm lại cuộc đời.
Đó là ánh mắt yêu thương. Tất cả sẽ không thể giải thích được nếu không có tình yêu. Chúa quan tâm tới Giakêu vì Chúa yêu thương ông, như người mục tử tốt lành đi tìm con chiên lạc. Chúa khiêm nhường vì Chúa yêu thương ông, như người cha cõng con trên vai. Chúa tha thứ vì Chúa yêu thương ông, như người cha sẵn sàng chờ đón đứa con hoang đàng. Chúa tin tưởng vì Chúa yêu thương ông, như người mẹ không khi nào nói rằng con mình xấu, dù nó phạm tội trăm lần. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương. Ngập tràn trong yêu thương, trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Đời ông được đốt cháy trong yêu thương. Nên ông đã đáp lại tình yêu thương của Chúa. Vì yêu mến Chúa mà ông yêu thương đồng loại. Yêu thương nên đền bù thiệt hại. Yêu thương nên chia sẻ chân thành.
Lạy Chúa, Chúa luôn nhìn con bằng ánh mắt yêu thương. Xin cho con biết nhìn vào mắt Chúa, nhận ra tình yêu thương của Chúa và biến đổi cuộc đời như ông Giakêu.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Chúa nhìn Giakêu bằng ánh mắt thế nào?
2) Giakêu đã đáp lại ánh mắt của Chúa ra sao?
3) Bạn có bao giờ nhìn thấy ánh mắt Chúa nhìn bạn chưa?
4) Bạn có muốn nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa không? [Mục Lục]
Anh chị em thân mến.
Nhạc sĩ Trần Tiến có một bài hát đi vào lòng người, không phải chỉ những người Việt Nam, nhưng cả người ngoại quốc đến Việt Nam và biết tiếng Việt khá một chút, cũng biết bài hát này.
Bài hát diễn tả tâm tình của một chú bé miền quê, mê tiếng đàn của anh lính xa nhà. Không biết “Đàn anh hát câu gì mà sao chú bé cười ngộ ghê, cũng không biết đàn anh hát câu gì, mà sao chú bé ngồi mơ màng. Hạnh phúc quá đơn sơ....”
Hạnh phúc quá đơn sơ thật, với tiếng đàn nghiệp dư, tiếng đàn để giải sầu cho riêng mình, mà cũng có người tìm được niềm vui. Chú bé tìm đến tiếng đàn của anh lính, chú bé ngất ngây dường như bước vào một cỏi thần tiên.
Cũng một cuộc đi tìm, một biến cố không chỉ làm ngất ngây lòng người trong phút chốc, nhưng cái tìm gặp nầy làm thay đổi cả một đời người. Đó là sự tìm gặp giữa Chúa Giêsu và Giakêô.
Giakêô muốn tìm Chúa, muốn nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhưng lực bất tòng tâm, tầm vóc của ông không đủ để vượt qua đám đông để cho ông có thể nhìn thấy Chúa Giêsu. Thân phận của ông cũng khó công khai đến gần những người được gọi là đạo đức, vì ông là thủ lãnh người thu thuế, là người mang tội với dân tộc. Nhưng ông không chịu thua số phận, ông vượt lên số phận, tìm cách vượt qua những trở ngại.
Với những cố gắng như thế, ông đã nhận được hơn cái mình mơ ước. Ong chưa nhìn thấy Chúa Giêsu thì Ngài đã nhìn thấy ông, không chỉ thế, Ngài còn gọi đúng tên ông, ngoài sức tưởng tượng, Ngài còn nhả ý ngụ tại nhà ông. Niềm vui tràn ngập cỏi lòng, ông bất chấp những người chung quanh, bất chấp hoàn cảnh sống, cái hoàn cảnh không cho ông có cơ hội đỗi đời. Giờ đây ông ông không bỏ lở cơ hội mà ông có được. Ong làm một cuộc đỗi mới ngoạn mục, việc làm của ông còn hơn việc làm của một người đạo đức bình thường, ông đã sẵn sàng và Chúa Giêsu nhìn thấy sự đỗi mới này nên Ngài thốt lên: “Hôm nay nàh này được ơn cứu độ, vì ông cũng là con cái Abraham”.
Một sự tìm kiếm, một cái nhìn thông cảm, hơn cả tiếng sét ái tình, một cuộc chạm trán làm thay đổi đời người. Giakêô đi tìm và đã tìm được hơn cái mình muốn tìm, ông không thể nào ngồi yên bất động, nhưng ông nghe tiếng Chúa nên ông phải đi, phải hành động. Không phải chỉ hành động bằng đôi tay, nhưng bằng cả con người của ông. Ong không để cho con người mình bất động trong những gì mà người khác gọi là tội lỗi, ông đã bước ra khỏi đó, để trở thành một người mới hoàn toàn.
Câu chuyện của ngày xưa, nhưng không xưa, câu chuyện vẫn còn mang tính cách hiện đại cho những người thời nay, cho mỗi người trong chúng ta. Giakêô chỉ ao ước nhìn thấy Chúa, nhưng ông được Chúa đến ở tại nhà và như thế sự đỗi mới đã xẩy ra. Cũng như chú bé trong bài hát Mặt Trời Bé Con của nhạc sĩ Trần Tiến, chỉ cần tìm đến nghe tiếng đàn, chú bé có thể đỗi đời được từ buồn, đã đỗi sang vui và mơ màng. Còn chúng ta, chúng ta có tìm và chúng ta có gặp được gì chưa?
Mỗi người để ra một giây phút nhìn lại mình, xem đời sống mình có gì mới hơn so với những ngày tháng trước đó. Hay chúng ta vẫn tự hào về đời sống của mình, rồi tự cho là thánh thiện đạo đức, nên không cần phải thay đổi gì nữa. Nếu có thay đổi thì người khác, những người tội lỗi, những người mà chúng ta đã từng chỉ trích và khinh dể họ, vì họ có đời sống mà chúng ta cho là không xứng đáng. Như thế thì chúng ta đang đứng về phía đám đông đi theo Chúa Giêsu, họ cũng cho mình là đạo đức thánh thiện xứng đáng hơn Giakêô, họ đã che khuất tầm nhìn của ông, họ đã khinh dể chỉ trích ông và chỉ trích cả Chúa Giêsu. Họ cũng đã tự hào về chính mình. Nhưng Chúa Giêsu không ghé vào nhà của người nào trong họ, mà lại ghé nhà người mà họ khinh dể, vì ông ta nhìn thấy chính mình và biết thay đổi cuộc sống.
Còn chúng ta, không phải Chúa Giêsu chỉ ghé qua, nhưng Ngài luôn ở trongtâm hồn mỗi người. Ngài không chỉ nhìn và kêu gọi, nhưng Ngài hằng hoạt động và kêu mời liên tục. Nếu chúng ta biết lắng nghe, biết từ bỏ những gì làm cho chúng ta trở thành không xứng đáng, khi đó chúng ta cũng được nghe Chúa Giêsu nói như đã nói với Giakêô: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ”.
Xin Chúa chúc lành cho cuộc sống chúng ta mỗi ngày biết thay đổi cho tốt hơn. [Mục Lục]
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Nhiều đệ tử đang theo học Thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích.
Một đêm kia, Sengai đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo:
- Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy?
Từ đó, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.
Thiên Chúa không những tế nhị, dịu dàng, và nhân từ như thầy Sengai mà Người còn khoan dung, tha thứ và yêu thương những con người tội lỗi.
Ông Giakêu là một trưởng ty thuế vụ thành Giêricô, một người giàu có vì lạm thu bất chính. Ông bị liệt vào số những kẻ tội lỗi, bị khai trừ và khinh bỉ. Chúa Giêsu không nhìn ông bằng con mắt ấy, Người ngước nhìn ông đang ngồi trên cây sung; một cái nhìn nhân từ như không thấy tội gì trong ông. Chính cái nhìn đầy chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Người nói với ông: “Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”. Hạnh phúc quá bất ngờ: Người không chỉ biết ông đang ở trên cây mà còn biết cả tên ông. Người không chỉ muốn đến thăm mà còn xin ở lại nhà ông. Ông chỉ có một ao ước nhỏ nhoi là được nhìn thấy Người, nhưng Người lại cho ông cả một ân huệ lớn lao vượt quá lòng ông mong ước. Ông chỉ muốn thấy kẻ đã chữa cho anh mù Báctimê là người thế nào, nhưng chính Đấng ấy lại chữa lành đôi mắt tâm hồn ông.
Vâng, chính đôi mắt tâm hồn ông đã bừng sáng, để ông không chỉ thấy một con người bình thường trước mặt, nhưng còn thấy Người chính là Đấng ban ơn cứu độ, đầy lòng nhân từ và xót thương; để ông không chỉ thấy tiền bạc là tất cả nhưng còn thấy cần chia sẻ và trao ban. Ông đã quá vui mừng hứa với Chúa: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đến gấp bốn”. Và Chúa chỉ chờ có thế, để nói với mọi người: “Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Thật vậy ở đâu có Chúa hiện diện là có ơn cứu độ, ở đâu có ơn cứu độ là có sự tha thứ. Ông Giakêu đã được thứ tha để được nhận lại làm con cái Abraham, con cái của lòng tin, con cái của Thiên Chúa.
Và chắc chắn, không ai có thể ngăn cản ông ngồi đồng bàn với Chúa, trong bữa tiệc hân hoan ngay sau đó. Chắc chắn, ông Giakêu không còn giàu có như trước nữa, nhưng ông sẽ hạnh phúc hơn nhiều. Chắc chắn thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Những người được Chúa “tìm đến và cứu chữa” bao giờ cũng trổi vượt trong nhân cách và kiên vững trong lòng tin.
Lạy Chúa, có rất nhiều người cần chúng con nhìn họ với cái nhìn của Chúa, có rất nhiều người mong chúng con ghé thăm.
Xin cho chúng con một tấm lòng khoan dung như Chúa, và một tâm hồn quảng đại như Giakêu, để cả thế giới này trở nên con cái Abraham, và được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa. Amen. [Mục Lục]
“Giang sơn dễ đổi bản tính khó dời”. Đó là cái nhìn của nhiều người. Thế nhưng dù sao thì “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Bản tính đó nhiều khi được hình thành do nhiều yếu tố khác nhau. Chính vì thế chúng ta có cơ sở để nói rằng lòng người có thể thay đổi. Sự thay đổi ấy sẽ tùy thuộc vào cố gắng nỗ lực của bản thân đương sự và nhất là nhờ vào tình yêu thương của tác nhân bên ngoài.
Điều khẳng định trên đây được minh chứng qua hình ảnh ông Dakêu trong đoạn Tin mừng hôm nay. Trước hết chúng ta tìm hiểu những chi tiết cho thấy sự cố gắng nỗ lực của ông. Ông là thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có (Lc 19, 2). Có lẽ, bấy nhiêu vẫn chưa đủ đối với ông, tự đáy lòng mình ông vẫn còn khao khát một điều gì đó và ông nghĩ là chỉ có Chúa Giêsu mới có thể làm cho ông được thỏa lòng. Nghe biết có Chúa Giêsu đi ngang qua thành Giêricô nên ông tìm cách thấy mặt cho được Người. Là thủ lãnh những người thu thuế và do dáng thấp bé quá nên chắc ông không được mọi người ủng hộ. Dầu vậy, ông không chịu đầu hàng với số phận. Đúng như ông bà chúng ta nói cái khó nó ló cái khôn nên: “Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó”. (Lc 19, 4).
Những nỗ lực của ông đã được Chúa Giêsu đền bù thỏa lòng vượt khỏi những gì ông mong đợi. “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc 19, 5b). Câu nói này xuất phát từ một tình thương vô bờ bến của Chúa Giêsu dành cho ông. Một con người dường như không còn giá trị, không còn ích lợi gì cho đời nữa. Thể lý thì thấp bé, đã vậy còn là thủ lãnh những người thu thuế. Đối với xã hội Do thái nghề thu thuế được coi là nghề tội lỗi công khai. Cho nên, không ai còn ưa thích ông, mọi người đều tìm cách xa lánh. Thiết nghĩ ông sẽ rất đau khổ. Nỗi thống khỗ ấy không ai nhìn thấy nhưng Chúa Giêsu đã nhìn thấy.
Chi tiết hết sức đẹp trong đoạn Tin mừng hôm nay là sự thay đổi của ông Dakêu: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” (Lc 19,8b). Từ một con người chỉ biết thu góp tích trữ cho mình bây giờ ông đã thay đổi trở thành một con người biết mở ra cho người khác.
Có nhiều lúc chúng ta cảm thấy mình như lạc lỏng giữa cộng đoàn vì tội lỗi hay vì lý do nào đó. Không còn ai hiểu mình, mọi người đều xa lánh. Những lúc ấy chúng ta hãy tin tưởng đặt trọn con người mình vào vòng tay yêu thương của Chúa Giêsu. Hãy noi gương ông Dakêu vượt qua số phận và dự luận để đến múc lấy nguồn ơn của Chúa Giêsu. Và rồi chúng ta cũng được kêu mời noi guơng Chúa Giêsu dùng tình thương mà đến với anh chị em mình. Biết đâu nhờ tình thương của mình mà họ được thay đổi tốt hơn. [Mục Lục]
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’ – Veritas)
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một hình ảnh sinh động và thú vị về thái độ của một tay trùm thu thuế có tên là Giakêu. Giakêu là một con người khá đặc biệt. Đặc biệt vì ông ta có vóc dáng quá khiêm tốn, vừa nhỏ vừa lùn. Đặc biệt vì ông ta là một người giàu có ai cũng biết, nhưng sự giàu có của ông là do nghề nghiệp thu thuế, một nghề mà đối với người Do thái bấy giờ là nghề tội lỗi. Tội lỗi với dân tộc vì làm tay sai cho ngoại bang, cho đế quốc đàn áp và bóc lột đồng bào. Tội lỗi với Gia vê Thiên Chúa và với lề luật, vì đã tham nhũng và thủ lận tiền chung bỏ vào túi riêng.
Một người như ông mà lại tò mò đến nỗi phải leo lên cây sung, vì ao ước chỉ được xem thấy Chúa Giêsu và cuối cùng không những được xem thấy mà còn đối diện với Ngài, tiếp đón Ngài vào nhà. Cuộc tiếp xúc này dẫn ông đến việc tự nộp mình vào cuộc đánh tư sản mại bản của chính bản thân ông: “Này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi sẽ phân phát cho người nghèo và nếu tôi có gian lận của ai, tôi sẽ đền gấp bốn”.
Thái độ của Giakêu không phải là thái độ rửa tiền hay chạy tội của một kẻ quan chức tham ô thủ đoạn. Nhưng là một thái độ chân thành hối cải, một thái độ của người nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ của Ngài. Một lần và chỉ một lần giữa Đức Giêsu và Giakêu đã làm biến đổi cả cuộc đời. Nhưng dầu sao đi nữa, điều làm cho chúng ta lưu ý chính là dung mạo đích thực của Đức Giêsu, Đấng cứu chuộc đã đến và đang hiện diện giữa nhân loại.
Giakêu hôm nay tôi lưu lại nhà ông và hôm nay ơn được cứu độ đã đến cho nhà này.Vì Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã mất. Chúa Giêsu không những đã vượt qua và còn phá đổ những giới hạn và những gía trị của tập tục Do thái và những quan niệm của những người biệt phái. Ngài la cà tiếp xúc với những người tội lỗi, Ngài vào nhà và ăn cơm với những người thu thuế. Ngài để cho người đàn bà tội lỗi quấn quít rồi để cho bà lấy tóc lau chân Ngài. Ngài đã cứu chữa những người bệnh tật trong ngày Sabbat.
Hình ảnh của Đức Giêsu cho thấy một Thiên Chúa giống như bài đọc 1 sách Khôn Ngoan: “Thiên Chúa chẳng từ nan để vượt qua những ranh giới ứng kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh thiện và tội lỗi, giữa luật lệ và cứu sống. Ngài đến để gặp gỡ những người mà Ngài yêu thương, Ngài tìm kiếm và cứu độ họ”.
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống Kitô hữu chúng ta, điều cốt uếu của Tin Mừng Đức Kitô chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải do nỗ lực luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp ông Giakêu sám hối và tìm lại được đời sống luân lý tốt đẹp hơn. Chính Thiên Chúa đã đi tìm Giakêu, trước khi ông tìm kiếm Ngài. Ngài đã mời gọi ông trước khi ông thấy gặp Ngài. Quả thực, đúng như điều thánh Phaolô đã xác tín trong thơ Rôma như sau: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân”. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Thiên Chúa đã luôn luôn tìm kiếm chúng ta, mọi người và từng người, chỉ có điều chúng ta có ao ước gặp Ngài hay không? Chúng ta có dám vượt qua đám đông xô bồ đang bon chen xô lấn cuộc đời để đến với Ngài hay không? Có dám mạnh dạn để đáp trả lời mời gọi của Ngài và đón tiếp Ngài hay không? Nếu chỉ một lần gặp gỡ Đức Giêsu mà Giakêu đã đánh đổi tất cả thì chúng ta hằng ngày đến nhà thờ để hiệp dâng Thánh Lễ, chúng ta có sẵn sàng đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào trong tâm hồn và có dám để Thiên Chúa biến đổi chúng ta hay không? Điều còn lại của chúng ta là biết lắng nghe và sẵn sàng đáp trả, dám can đảm sám hối và canh tân đời sống để được ơn cứu độ.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta vững mạnh trong đời sống đức tin để nhận ra tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa đang trao ban cho chúng ta. Xin cho chúng ta can đảm để sẵn sàng đáp trả và đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Vậy chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng đức tin của mình qua Kinh Tin Kính. [Mục Lục]
Truyện kể: Công tước D’Ossome, phó vương xứ Napoli, nước Ý. Một hôm, ông đi thị sát chiến thuyền Galère được chèo chống bởi một đội tù nhân đông đảo. Khi gặp các tù nhân, ai cũng kêu ca bào chữa rằng họ là những người vô tội. Chỉ có một tù nhân ngồi ở phía góc cúi đầu, chẳng nói chẳng rằng. Công tước bước đến và dịu dàng hỏi han. Anh nói: Thưa ngài, tôi chẳng có gì để bào chữa. Tôi chịu xứng với tội tôi đã phạm. Công tước quay ra nói với mọi người: Anh này là phạm nhân, hắn không xứng đáng ngồi nơi đây chung đụng với những người vô tội. Ta ra lệnh trục xuất ngay hắn ra khỏi chỗ này. Và thế là, chỉ nhờ vào lòng chân thành biết nhận lỗi. Người tù nhân đã được giải phóng khỏi kiếp nô lệ.
Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tốt lành vô cùng. Vì yêu thương, Chúa tạo dựng muôn loài và muôn vật để cùng chung hưởng hạnh phúc. Nhìn ngắm vũ trụ muôn loài thật quá vĩ đại nhưng tình thương của Chúa còn bao la vĩ đại tuyệt vời hơn. Tác giả sách Khôn Ngoan viết: Trước nhan thánh, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai rơi trên mặt đất (Kn 11, 22). Thụ tao do Chúa dựng nên đều tùy thuộc vào sự an bài của Chúa. Sự hiện hữu của những mầm sống từ loài thực vật nhỏ li ti cho đến những loài vật khổng lồ đều sống dưới sự chở che quan phòng của Thiên Chúa. Mọi loài thọ tạo đều chia sẻ một nguồn sống từ Đấng Tạo Hóa: Lạy Chúa tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa (Kn 11, 26). Mỗi loài thụ tạo đều góp phần làm vinh danh Thiên Chúa từ đời này tới đời kia.
Luật Chúa như kim chỉ nam giúp cho chúng ta tìm ra con đường chính thật. Giống như luật lệ giao thông, trên mọi con đường lớn nhỏ đều có các bảng dẫn lối chỉ đường, vậy mà nhiều người cũng vẫn bị lạc hoặc phạm lỗi. Những ai có bằng lái xe đều phải học biết luật lệ, khi phạm luật thì bị phạt. Chúng ta không thể kêu ca trách móc ai cả. Đời sống đạo cũng thế, có luật Chúa và luật Giáo Hội, chúng ta cố gắng soi mình để sống tốt và sống cho phù hợp với luật dạy. Chúng ta được nhắc nhở canh thức và thức tỉnh lương tâm sống đạo. Sách Khôn Ngoan dậy rằng: Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa (Kn 12, 2). Đừng coi thường những huấn lệnh, giới răn và lời khuyên dạy. Có đôi khi chúng ta đang dìm mình trong vũng lầy mà không nhận ra. Sống trong u mê lầm lạc lại tưởng là đang sống trong hoan lạc.
Phúc âm kể câu truyện Chúa Giêsu đi ngang qua làng, thấy ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn xem Chúa. Chúa ngước nhìn lên, ông cúi xuống và hai ánh mắt chạm nhau. Trái tim Chúa xót thương và lòng người thổn thức. Chúa đề nghị ghé thăm nhà ông. Giakêu vui mừng đón tiếp Chúa và ông tự xưng thú tội lỗi mình trước mọi người. Ông Dakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đay phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19, 8). Ánh mắt nhân từ của Chúa đã cải hóa được một tâm hồn tội lỗi. Với lòng chân thành hối lỗi đền bù, Chúa đã cứu ông ra khỏi vũng lầy của gian tham tội lỗi.
Chúa Giêsu rong ruổi đi tìm những con chiên bị lạc. Có nhiều con chiên xa lạc chưa biết đường trở về. Chúa đã tìm và đi cứu: Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất (Lc 19, 10). Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy xin Chúa Cha ban thêm các thợ gặt tâm hồn. Cánh đồng lúa chín bao la nhưng thiếu thợ gặt. Còn biết bao nhiêu người đang bị mê lầm trong tội lỗi mà không nhận biết tin mừng cứu độ. Đôi khi chính chúng ta qúa quen với lối sống ấm êm hưởng thụ và cách sống dung túng trụy lạc, chúng ta không muốn từ bỏ con đường cũ và không muốn bước ra khỏi vũng bùn nhơ nhớp. Buông bỏ tội lỗi thì tiếc xót, vì tội là một cái thú. Chúa thường gởi đến những nhân chứng để đánh động tâm hồn. Chúng ta rất may mắn được lắng nghe lời Chúa chỉ dậy và được Giáo Hội nhắc nhở luôn. Chúng ta cần cầu nguyện xin ơn can đảm để có thái độ dứt khoát với tội lỗi qúa khứ.
Khi đọc Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu xin rằng xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Mỗi ngày sống, chúng ta phải đối diện với rất nhiều cơn cám dỗ. Cám dỗ về danh, lợi và thú. Có nghĩa là khi còn sống, thân xác luôn đòi hỏi những nhu cầu rất tự nhiên. Chúng ta luôn có cơ hội để chọn lựa thái độ sống tốt. Cái danh cái lợi, ai mà không thích. Tiền bạc và lạc thú, mấy ai từ chối. Những thói đời tham sân si kéo ghì con người chúng ta lại. Người ta thường nói tới cái ‘thú’ ở đời. Lạc thú dẫn chúng ta vào những si mê quay cuồng trong thú vui nhục dục, tham lam danh lợi, tiền bạc, gian lận bài bạc và buông thả cuộc sống.
Tội lỗi cứ bám sát cuộc đời của chúng ta. Nếu chúng ta không dứt khoát khước từ và dũ bỏ, nó sẽ không buông tha chúng ta. Chúng ta cần tự xét, nhận lỗi và sửa lỗi mình mỗi ngày. Cũng giống như ngày hôm qua chúng ta đã ăn no, ngày hôm nay đói, lại muốn ăn. Hôm qua, chúng ta tắm rửa sạch sẽ mát mẻ, hôm nay lại thấy dơ, nên phải tắm. Sáng thức dậy ra khỏi nhà và đi làm việc. Chiều lại trở về xum họp gia đình. Ai ra đi cũng mong trở về. Kẻ đi lạc, mong tìm được lối ra. Người rơi vào đường lầm, nên tìm đường trở lại. Khi sa ngã phạm tội, cần phải sám hối ăn năn. Tội hôm qua khác tội hôm nay. Cần xưng thú và lãnh ơn tha tội và xin hứa quyết lòng chừa. Mỗi lần phạm tội đều là tội mới trong hoàn cảnh mới. Chúng ta cần tiếp tục sám hối và trở về. Sống mỗi ngày cho trọn vẹn. Mỗi người được mời gọi đổi thay để sống tốt, thánh thiện và hoàn hảo hơn mỗi ngày.
Chúng ta có trí khôn để nhận biết giá trị của không gian và thời gian. Thời gian thuộc về Chúa. Mỗi ngày là một ngày mới hoàn toàn. Những điều chúng ta xem như cũ, cứ lập đi lập lại, nhưng không phải thế. Lời khuyên cũ được nhắc lại trong hoàn cảnh mới và với tâm tình mới. Mười năm trước chúng ta đã nghe câu truyện đó, hôm nay chúng ta được nghe lại cùng câu truyện nhưng đã có nhiều đổi thay. Khi xưa, chúng ta còn trẻ, còn hăng say và còn nhiều vấp ngã. Hôm nay, chúng ta trưởng hơn một chút, chững chạc hơn một tí và có thể nhẫn nại hơn. Điều quan trọng là chúng ta có tốt lành thánh thiện hơn không, hay vẫn dậm chân tại chỗ và đôi khi còn bị thụt lùi. Cho nên lời khuyên răn mời gọi đổi đời, trở về và sửa sai vẫn là cần thiết.
Trong thơ gởi cho giáo đoàn Thessalônica, thánh Phaolô vừa mời gọi và vừa cảnh báo rằng: Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mạc khải, hoặc đã nói, đã viết thư qủa quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ (2Thes 2, 2). Hãy sống thanh thản trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng, chúng ta không phải bồn chồn lo lắng truyện gì sẽ xảy đến. Đừng để lòng bận vướng những oán thù đã qua. Cố gắng sống trọn vẹn giây phút hiện tại trong ân tình với Chúa và với anh chị em.
Lạy Chúa, thân con mỏi mệt, tâm con yếu đuối, lòng con tội lỗi và hồn con lạc xa Chúa. Con xin thành tâm hối lỗi, xin Chúa thứ tha và đưa dắt con về nẻo chính đường ngay. [Mục Lục]
(Trích dẫn từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Gặp gỡ Chúa Giêsu là một biến cố hồng phúc cho con người, nếu người đó không lo sợ hoặc tránh né cuộc gặp gỡ này.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu. Chúng ta có thể ghi nhận hai thái độ trong cuộc gặp gỡ này.
Trước hết là thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dễ kẻ khác, không muốn cho kẻ khác đến gặp Chúa và nhận lãnh ơn lành của Chúa. Đó là thái độ của những kẻ lẩm bẩm trách Chúa đã niềm nở đón tiếp những người tội lỗi và ăn uống với họ, bởi vì đối với Chúa không có ai xấu xa tội lỗi đến độ không đáng được hưởng lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Liệu chúng ta có thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính và khinh dễ người khác không?
Thái độ thứ hai là thái độ của ông Giakêu, người thu thuế trưởng và giầu có. Đối với người Do thái, người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai: đó là tội phản bội quê hương cộng tác với ngoại bang, và tội gian lận tiền thuế quá mức qui định. Giakêu là người thu thuế trưởng và giầu có, sự giầu có này theo lý luận của người Do thái, chứng tỏ ông có những hành vi bất chính để làm giầu: thu nhiều, nộp ít, và như vậy ông là một người tội lỗi. Đối với người đồng hương với Giakêu, thì tội của ông không thể tha thứ được; nhưng đối với Chúa Giêsu, Đấng đến tìm và cứu những gì đã hư mất, thì đây là dịp để thể hiện tình thương nhân từ của Thiên Chúa.
Nơi con người tội lỗi Giakêu vẫn còn một khát vọng hướng về Chúa: ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu đi qua, và đây là yếu tố căn bản để được Chúa thi ân. Từ một khát khao gặp Chúa đến việc ăn năn trở lại không có khoảng cách không vượt qua được, vì Chúa Giêsu có thể vượt qua khoảng cách này một khi con người đã có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của Giakêu có thể khuyến khích chúng ta trở về với Chúa. Ông đã thể hiện sự trở lại của mình bằng một hành động cụ thể thiết thực: phân chia nửa phần tài sản cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thể hiện một cách cụ thể sự hoán cải của mình. Xin cho chúng ta đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết cộng tác với ơn Chúa và thành tâm trở về với Chúa. [Mục Lục]
Suốt mấy tuần lễ vừa qua, Lời Chúa nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lời cầu nguyện trong đời sống người Kitô hữu chúng ta. Trong Chúa Nhật 29, Đức Giêsu mời gọi chúng ta cầu nguyện kiên trì, như bà goá kiên trì trước vị Thẩm phán bất lương. Còn trong Chúa Nhật vừa rồi, Đức Giêsu lại mời gọi chúng ta cầu nguyện với một tấm lòng khiêm tốn, biết nhận ra những lỗi lầm, yếu đuối của mình, để nhờ đó chúng ta nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, như người thu thuế cầu nguyện trong Đền Thờ. Sở dĩ Đức Giêsu luôn kêu mời chúng ta cầu nguyện, vì Thiên Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ là một người Cha đầy lòng nhân ái. Ngài yêu thương chúng ta “đến nỗi đã ban Con Một của Người, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Người Con đó chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài đã được Chúa Cha sai đến thế gian, không phải để xét xử, nhưng là để chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã đến trong thế gian là để ban ơn cứu độ, hay nói như lời Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài đến để “tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất”.
Đời sống con người gắn liền với những cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ mà người ta háo hức như gặp người yêu, gặp một nhân vật nổi tiếng, gặp một người thân xa cách đã lâu... Tuy nhiên, gặp kẻ khó ưa, gặp tên trấn lột, tên lường gạt... thì chẳng ai mong muốn. Ngoài ra lại có những cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa, có sức hoán cải, làm thay đổi cả con người. Cuộc gặp gỡ như thế không chỉ dừng lại ở gặp mặt, gặp gỡ xã giao, nhưng là cuộc gặp gỡ thâm sâu, gặp gỡ giữa hai tâm hồn. Trang Tin Mừng hôm nay kể lại cho húng ta cuộc gặp gỡ hết sức thú vị giữa Đức Giêsu và Giakêu. Đức Giêsu lại muốn kết thân với Giakêu, kẻ tội lỗi bị mọi người xa lánh. Thế nhưng trong cuộc kết giao này, Đức Giêsu đã cứu được một tội nhân khỏi vòng tội lụy; còn Giakêu, dù là chia nửa gia tài của mình cho người nghèo, nhưng lại được mối lợi thật to. Ông và cả gia đình đón nhận được hồng ân cứu độ. Quả là một cuộc gặp gỡ diệu kỳ đưa đến hoán cải tận căn. Ông Giakêu không những là một người thu thuế, mà còn là thủ lãnh những người thu thuế, tức là một chủ thầu thuế má, nên ông cũng là một người rất giàu có. Người Do thái rất ghét những người thu thuế, coi họ là những người tội lỗi, không thể ăn năn hối cải, không thể tha thứ, làm tay sai cho ngoại bang: thu thế cho đế quốc Rôma. Trong nghề đó, người ta có thể bày rất nhiều trò ma giáo để ăn hối lộ những kẻ muốn trốn thuế, hay muốn giảm thuế phải đóng. Bởi đó, người Do thái ghê tởm những người thu thuế. Ông Giakêu là người như thế. Không những ông bị thiên hạ khinh dể mà còn có thân hình thấp lùn. Tuy nhiên, Ông muốn tìm cách để xem Chúa Giêsu là người như thế nào. Nhưng dân chúng chen chúc chung quanh Chúa đông quá. Ông quyết không bỏ lỡ cơ hội. Một người chủ thầu phải có nhiều sáng kiến. Ông chạy tới trước và leo lên một cây sung bên đường. Ông yên tâm chờ đợi, vì Chúa Giêsu sắp đi ngang qua đó. Lòng ước muốn của ông thật là mãnh liệt, vì ông không sợ đám đông chế diễu. Ông chỉ còn biết một điều là làm sao thấy được mặt Chúa Giêsu. Quả thực, ông đã có thiện chí. Bấy nhiêu đã đủ để Chúa trọng thưởng tấm lòng chân thành của ông.
Giakêu muốn gặp mặt Đức Giêsu, không kèn, không trống, không kẻ hầu người hạ. Ông đi một mình trơ trụi, bị đẩy lại sau những kẻ tò mò, và điều hạ nhục ông là ông phải làm một chuyện kỳ dị đối với một viên chức cao cấp. Có thể nói ông đã làm một bước nhảy vọt, vượt trên mọi dư luận, mọi thành kiến. Ông làm tất cả những điều đó cốt để tận mắt thấy Đức Giêsu. Quả là đáng khâm phục! Thế nhưng, Đức Giêsu lại làm một cử chỉ đáng kinh ngạc hơn. Trong lúc được đám đông dân chúng vây quanh và hết lòng ngưỡng mộ, Người lại tách mình ra khỏi đám đông hỗn độn ấy để đến với một kẻ tội lỗi. Vì lòng thương xót đối với tội nhân, Người chẳng màng đến những lời xì xầm, bàn tán hay dị nghị. Đấng Thánh của Thiên Chúa hạ mình xuống làm bạn với một người tội lỗi. Tình yêu vượt lên mọi thành kiến, mọi trở ngại, mọi rào cản.
Chúa Giêsu đi tới, Ngài nhìn lên và gọi đích danh ông. Điều quan trọng là Chúa không chỉ đi ngang qua cho ông Giakêu nhìn Chúa, chính Chúa nhìn lên và gọi tên ông: “Giakêu! xuống mau, hôm nay ta đến nhà ông”. Chúa muốn đến với ông và đến tận nhà ông. Được đáp ứng quá sự trông mong. Ông muốn thấy Chúa thì Chúa đến tận nhà để ông nhìn cho đã. Chúa quảng đại vô cùng. Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Ngài. Nhưng đám đông lại xầm xì với nhau. Họ khó chịu với Chúa Giêsu, vì Chúa vào trọ nhà một người tội lỗi. Ông Giakêu đã tìm ra giải pháp để vượt qua cái giới hạn của tấm thân lùn. Liệu ông có tìm được giải pháp cho thân phận tội lỗi của ông để thắng được lời xì xầm kia không? Ông không sợ đám đông chế diễu khi leo lên cây sung để nhìn mặt Chúa, thì Chúa đã đáp lại, Ngài không sợ đám đông xầm xì khi yêu cầu ông đón Ngài về ở nhà ông. Đứng trước tình thương của Chúa, ông đã mở rộng tâm hồn. Ông sẵn sàng chuộc lại tội lỗi, ông thưa với Chúa là đem nửa gia tài phân phát cho người nghèo. Không những thế, ông thấy mình còn phải thực hiện sự công bình nữa: làm thiệt ai ông sẽ đền gấp bốn. Lòng quảng đại của ông sánh với lòng quảng đại của người đàn bà tội lỗi: ông yêu mến nhiều vì đã được tha nhiều. Lòng yêu mến của ông đối với Chúa Giêsu diễn tả thành lòng yêu mến người nghèo và những người đã bị ông bóc lột.
Sau khi ông Giakêu tuyên bố quyết định của ông, thì Chúa Giêsu nói: “Hôm nay nhà này được cứu độ, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Ông Giakêu trở thành kiểu mẫu đón nhận ơn cứu độ và là cơ hội để Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Ngài: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”. Ông Dakêu đã bị đám đông loại trừ, vì thân ông lùn và phận ông tội lỗi. Nhưng Chúa đã rời đám đông kiêu hãnh kia để đi tìm ông và đem ơn cứu độ cho ông. Chúa đã nhìn ông và cứu ông. Cái nhìn của Chúa, cái nhìn chinh phục, cái nhìn của tình thương muốn cứu vớt. Ông Giakêu đã tìm cách nhìn thấy Chúa, nhưng ông cũng đã để cho Chúa nhìn ông và chinh phục ông. Ông được cứu độ.
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống Kitô hữu chúng ta, điều cốt yếu của Tin Mừng Đức Kitô chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải do nỗ lực luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp ông Giakêu sám hối và tìm lại được đời sống luân lý tốt đẹp hơn. Chính Thiên Chúa đã đi tìm Giakêu, trước khi ông tìm kiếm Ngài. Ngài đã mời gọi ông trước khi ông thấy gặp Ngài. Quả thực, đúng như điều thánh Phaolô đã xác tín trong thơ Rôma như sau: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân”. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Thiên Chúa đã luôn luôn tìm kiếm chúng ta, mọi người và từng người, chỉ có điều chúng ta có ao ước gặp Ngài hay không? Chúng ta có dám vượt qua đám đông xô bồ đang bon chen xô lấn cuộc đời để đến với Ngài hay không? Có dám mạnh dạn để đáp trả lời mời gọi của Ngài và đón tiếp Ngài hay không? Nếu chỉ một lần gặp gỡ Đức Giêsu mà Giakêu đã đánh đổi tất cả thì chúng ta hằng ngày đến nhà thờ để hiệp dâng Thánh Lễ, chúng ta có sẵn sàng đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào trong tâm hồn và có dám để Thiên Chúa biến đổi chúng ta hay không? Điều còn lại của chúng ta là biết lắng nghe và sẵn sàng đáp trả, dám can đảm sám hối và canh tân đời sống để được ơn cứu độ.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta vững mạnh trong đời sống đức tin để nhận ra tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa đang trao ban cho chúng ta. Xin cho chúng ta can đảm để sẵn sàng đáp trả và đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. [Mục Lục]
Ông Giakêu thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo”. “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc. 19, 8b-10)
Ông Giakêu thân hình thấp bé, đứng đầu những người thâu thuế ở thành Giêricô, những đoàn người buôn bán từ Ả-rập qua thành đều phải chịu thuế nhập thị. Như thế, ông là người rất giàu, nhưng bị người Do thái khinh chê là hạng người tội lỗi công khai và cộng tác với quân xâm lăng. Tuy nhiên, chính ông là người được Thiên Chúa gửi Thánh Thần đến lôi kéo ông về cùng Đức Giêsu.
Ông “Sếp” trở nên trẻ nhỏ
Các trẻ nhỏ sẵn lòng trèo lên cây cao quá tầm đám đông để xem. Ông Giakêu, mặc dầu là “xếp”, địa vị cao và giàu sang đã nên giống trẻ nhỏ. Ông không sợ thiên hạ nhạo cười và hạ nhục. Được tiếng nội tâm thúc đẩy, ông tò mò trèo lên cây nhìn xem Đức Giêsu bất kể ra sao thì sao.
Đức Giêsu vị ngôn sứ tuyệt vời, rất nhạy bén với hành động của Thánh Thần nơi người khác. Người nhìn lên và thấu suốt tận con tim của Giakêu. Người gọi tên ông, đó là tiếng gọi của tình yêu. Người ra lệnh cho ông: “Hãy xuống mau đi, vì hôm nay tôi ở lại nhà ông”. Sứ điệp của Đức Giêsu đã kêu gọi ông. Người phải dắt đưa chiên lạc của nhà Israel về.
Đoàn hành hương theo Đức Giêsu chẳng hiểu gì sứ điệp của Người. Đức Giêsu vừa tỏ quyền phép của Thiên Chúa chữa người mù được thấy và bây giờ tự mời mình vào ở nhà một người tội lỗi. Vậy Người không thể là Đấng Thiên sai Cứu thế. Người trong sạch không thể đồng cư với kẻ ô uế. Như thế, Đức Giêsu đã nên cớ cho người ta vấp phạm trong suốt cuộc đời cứu thế của Người đúng như ông Si-mê-on nói tiên tri: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm cớ cho nhiều người Israel vấp ngã hay được chỗi dậy” (Lc. 2, 34).
Và tự hủy mình đi
Niềm vui đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa để trở về thật chứa chan, Giakêu đã vui mừng đón rước Đức Giêsu vào nhà. Ông vui mừng chính thức công bố trở về và hứa bồi thường đầy đủ gấp bốn lần luật buộc, cùng hiến nửa gia tài làm việc bác ái giúp người nghèo. Ơn Chúa đầy tràn, ông đáp lại bằng tấm lòng thiện chí đầy tràn.
Đức Giêsu quay lại phía đám đông giúp họ hiểu rằng Giakêu đã tỏ ra xứng đáng là con cháu thật của tổ phụ Áp-ra-ham, có lòng quảng đại đặc biệt, mặc dầu nghề nghiệp ông thuộc lớp người tội lỗi. Đức Giêsu đem ơn cứu độ đến nơi nào biết tiếp đón Người đến ở. [Mục Lục]
Câu chuyện Giakêu quá quen thuộc, nhưng lại là một bức tranh sống động, phong phú, tinh tế và là lời chất vấn và mời gọi qua mọi thời đại. Trong hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đi ngang qua Giê-ri-khô và xảy ra câu chuyện ông Giakêu với những nét tương phản hài hước và độc đáo. Nhân vật chính được giới thiệu qua bốn chi tiết: (1) Tên gọi: Giakêu, (2) Nghề nghiệp: Đứng đầu những người thu thuế, (3) Địa vị xã hội: Người giàu có, (4) Ngoại hình: thấp bé, ngôn ngữ bình dân gọi là lùn.
Trong câu chuyện, nhân vật Giakêu có những nét tương phản vừa theo quan điểm người đời, vừa theo quan điểm tâm linh. Theo người đời, Giakêu là người có địa vị, có quyền và có tiền, ba yếu tố này làm nên sức mạnh và uy thế của một con người. Ông ở cao hơn những người bình thường, nhưng ông lại thua kém họ về chiều cao, nên tầm nhìn bị thu hẹp và bị hạn chế. Ông muốn thấy Đức Giêsu, nhưng đám đông trở thành chướng ngại cho điều ông ước muốn. Tuy nhiên, con người không hơn nhau ở chiều cao mà hơn nhau ở cái đầu; Giakêu quyết định thực hiện ước muốn thấy Đức Giêsu bằng cách trèo lên cây sung. Quyết định này tạo nên tương phản giữa việc ông đạt được mục đích là thấy Đức Giêsu, nhưng phải hy sinh thể diện. Một người có quyền hành và địa vị như ông mà lại leo lên cây sung, mượn cây sung để cải thiện chiều cao của mình, thì chẳng gì đề cao cái sự thấp bé của ông trước mọi người.
Đáng chú ý hơn là tương phản theo quan điểm tâm linh. Ông Giakêu là người quyền thế trong xã hội, nhưng đám đông lại gọi ông là “người tội lỗi”, vì khi Đức Giêsu quyết định ở lại nhà ông, mọi người xầm xì: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Câu kết của Đức Giêsu: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” đã xếp Giakêu vào loại những người đã mất, nhưng được Đức Giêsu cứu.
Tương phản trên bình diện tâm linh và cách xử sự của Giakêu để xem thấy Đức Giêsu đã được Người đánh giá cao. Việc ông dám trở trên trò cười cho thiên hạ để tiếp cận được Đức Giêsu cho thấy thiện chí của ông. Nhờ hành động này, ông trở thành nhân vật chính của câu chuyện với những chuyển biến tích cực và nhanh chóng. Khi Đức Giêsu nhìn lên và nói với ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (19,5) Bản văn chơi chữ khi viết Đức Giêsu nhìn lên và bảo ông xuống, nghĩa là trở về với chiều cao đích thực của mình, trở về với con người thực của mình, để không những thấy Đức Giêsu mà còn để đối thoại với Người, để quyết định bán nửa tài sản cho người nghèo và đền gấp bốn cho những ai mình đã làm họ bị thiệt.
Điều mới mẻ so với trình thuật người thu thuế Lê-vi ở chỗ Lê-vi đã bỏ nghề thu thuế và đi theo Đức Giêsu, còn ông Giakêu có bỏ nghề đứng đầu những người thu thuế hay không, bản văn không cho biết. Trình thuật chỉ nhấn mạnh tấm lòng của ông đối với người nghèo và việc ông chú trọng sự công bằng. Có thể hiểu Giakêu có thể tiếp tục đứng đầu những người thu thuế mà vẫn được cứu. Điều quan trọng là ước muốn gặp Đức Giêsu, thực hiện ước muốn này, và khi gặp thì mừng rỡ đón tiếp Người.
Trình thuật nói đến sự gặp gỡ tốt đẹp giữa hai con người với hai sự tìm kiếm. Giakêu tìm cách để thấy Đức Giêsu còn Đức Giêsu đang tìm và cứu những gì đã mất. Chính sự gặp gỡ giữa hai con người đang tìm kiếm này làm cho Giakêu trở thành người được cứu và làm tỏ lộ sứ vụ của Đức Giêsu.
Điểm độc đáo của bản văn ở ngay trong trong cách trình bày nhân vật Giakêu. Ông là người vừa thấp vừa cao. Cao về địa vị xã hội, nhưng thấp bé về chiều cao. Thấp bé thể lý nhưng cao quý trong thiện chí tìm gặp Đức Giêsu. Ông có quyền hành và giàu có trong xã hội nhưng bị coi là người tội lỗi, là người đã mất, cần được cứu. Nhân vật Giakêu trở thành điển hình cho hành trình tìm kiếm và gặp gỡ Đức Giêsu là Người mang lại ơn cứu độ cho ông.
Đầu câu chuyện, Giakêu được giới thiệu như là người có mọi thứ: Chức vị, tiền bạc và quyền hành; nhưng ông đang thiếu và đang đi tìm cái mà tiền bạc và chức quyền không đem lại cho ông. Ông tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, mục đích trước tiên là xem cho biết con người mà ông chưa biết.
Điểm độc đáo thứ hai là Đức Giêsu không dạy giáo lý cho Giakêu, Người không bày tỏ tư cách Con Thiên Chúa của Người. Ngược lại Người chỉ nói một câu tỏ bày sự thân thiện và ưu ái của Người dành cho ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”.
Bài học cho chúng ta hôm nay là liệu sự ở lại của Đức Giêsu có khả năng làm cho chúng ta hoán cải, có khả năng làm cho chúng ta thuộc về Người, làm cho chúng ta biết chia sẻ với người nghèo và tôn trọng sự công bằng hay không. Câu chuyện Giakêu vẫn là lời chất vấn, lời mời gọi chúng ta trong cách chúng ta tìm gặp và đón tiếp Đức Giêsu, trong cách chúng ta sống niềm tin và thể hiện niềm tin của mình. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Vẫn có một khát vọng
Đức Giêsu sắp đi ngang qua Giê-ri-khô, chặng cuối cùng trước khi băng qua sa mạc để lên Giê-ru-sa-lem. Cuộc đi qua này xác định thêm một lần nữa sứ vụ của Đức Giêsu ; đó là tìm kiếm những gì đã hư mất.
Ông Da-kêu là một người bị dân chúng coi thường, vì ông là người cộng tác với quân chiếm đóng Rô-ma. Ông là một nhân viên thuế vụ luôn tìm cách thu lợi cho quân chiếm đóng và nhờ vậy mình được giàu thêm. Trước mắt dân chúng, đó là một con người bị khinh bỉ, mặc dù tên gọi của ông có nghĩa là trong sạch, là công chính.
Tuy nhiên, con người này lại muốn nhìn thấy Đức Giêsu. Trong tâm hổn ông đang trào lên một khát vọng gặp được Đức Giêsu, một con người lừng danh vì các phép lạ, và cả vì lời giảng của Người. Nhưng ông lại là một người thấp bé. Ông chen chúc trong đám đông. Ông nghển cỗ, kiểng chân, nhưng vô ích! Ông chẳng nhìn thấy Đức Giêsu, ông thật là một con người nhỏ mọn, không giá trị. Ông không dám chịu đến gần Đức Giêsu. Ông không dám tỏ mình ra.
Vậy là ông bỏ qua mọi chuyện: viên chức cao cấp này tìm cách trèo lên một cây sung. Một hấp lực nào đó từ bên trong thôi thúc ông. Ông hy vọng từ trên cành cây ông có thể nhìn thấy Đức Giêsu mà không bị phát giác. Những người dân ở đó nhìn thấy cảnh này hẳn phải bật cười: quả là kỳ cục, một đứa trẻ cũng không làm như thế.
Quả thật, vì Đức Giêsu, ông Da-kêu chẳng kể gì đến địa vị của mình. Ông chấp nhận tầm vóc nhỏ bé đích thực của mình. Ông chỉ là một người bé nhỏ khốn khỗ, và ông chấp nhận tình trạng này. Ông khiêm tốn, và bỏ hết mọi sự che đậy, mọi vẻ bên ngoài giả tạo. Ông trở về với sự giản dị của mình. Những gì vẫn bao phủ ông từ trước tới nay, lúc này rơi xuống hết. Đối với người khác, có thể chẳng có gì thay đỗi, nhưng đối với ông tất cả đang bắt đầu!
Tất cả đã thay đỗi - như phần sau của câu chuyện cho thấy. Ông Da-kêu được tái tạo, khi ông khiêm tốn hạ mình. Ông đã leo lên cây (hình bóng của thập giá) và con người cũ đã chết trên đó. Một đời sống mới được khởi đầu, một con người mới được nảy sinh.
Người đến để đem niềm vui
Đức Giêsu đi ngang qua và thấy có gì khác lạ. Ngước mắt lên, Người nhìn thấy ông và ngỏ lời với ông, một con người bị dân Do-thái coi là kẻ bất lương. Người nhận ra nơi con người này có điều gì đó đặc biệt: hành động leo lên cây của ông là một tiếng kêu gửi đến Người.
Người đòi lòng hiếu khách của ông và tỏ ý muốn dùng bữa tại nhà ông. Ông cảm thấy quá hạnh phúc và "vội vàng tụt xuống". Từ đây cuộc sống của ông hoàn toàn thay đỗi: từ một người bị cộng đoàn khinh chê ruổng bỏ, ông được Đức Giêsu đưa nhập vào cộng đoàn con cháu tỗ phụ Áp-ra-ham.
Ông Da-kêu đã bị bất ngờ, nhưng phải nói là dân chúng Giê-ri-khô còn bị bất ngờ hơn: "Nhà người tội lôỵi mà ông ấy cũng vào trọ." Thật là xúc phạm, không thể nào chấp nhận nỗi. Vậy mà Đức Giêsu còn tuyên bố rõ ràng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tỗ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất."
Như thế, từ cái nhìn yêu thương và mời gọi yêu thương, Đức Giêsu không loại trừ ai cả, dù người đó thế nào chăng nữa. Lòng thương xót của Người đủ rộng để bao phủ mọi tội lôỵi của con người. Ông Da-kêu đã lọt vào trong tấm lưới là lòng từ ái của Thiên Chúa. Ông tìm lại được niềm tin nơi người đã cứu ông, và ông đã trở thành người được tha thứ. Còn niềm vui nào lớn lao hơn nữa! Niềm vui chính là câu trả lời của Thiên Chúa cho con người chấp nhận để mình được cứu thoát khỏi chính bản thân mình và khỏi tội lôỵi.
Ông Da-kêu vui và làm cả nhà rối loạn lên vì niềm vui. Ông thúc giục gia nhân chuẩn bị đón tiếp Đức Giêsu. Từ trước đến nay do bản tính keo kiệt, chưa bao giờ ông tỗ chức một cuộc tiếp đón tưng bừng như thế.
Nhưng chưa hết, do sức mạnh của ơn giải thoát, của niềm vui đang dào dạt trong lòng, ông đã sẵn sàng chia một nửa tài sản cho người nghèo, và hứa đền gấp bốn cho những người đã bị ông cưỡng đoạt tài sản.
Ông Da-kêu đã bị tình yêu Đức Giêsu chinh phục, ông sẵn sàng bỏ mọi sự để sống đời sống mới do Đức Giêsu đem lại. Nhờ lòng thương xót của Người, tâm hổn ông đã hoán cải. Ông không nhận ra chính mình nữa, người khác cũng không nhận ra ông: đó là phép lạ lớn nhất. Có lẽ có người nghĩ rằng ông đã mất trí. Thực ra, sự quảng đại khó tin nỗi này là hệ quả đơn giản do lòng rộng rãi của Thiên Chúa, là dấu chỉ bên ngoài của sự hoán cải bên trong. Khi người ta thực sự được thứ tha, làm sao người ta lại không ước muốn trao tặng tất cả? Bởi vì lúc ấy người ta là một người khác: một con cháu của tỗ phụ Áp-ra-ham, một người được cứu thoát, một người tin vào tình yêu đầy bất ngờ do Thiên Chúa đem lại.
Thiên Chúa cần đến chúng ta
Qua khát vọng của ông Da-kêu, Đức Giêsu đã mở một con đường. Chính Người đã đưa ra sáng kiến, đã lôi ông từ trên cành cây xuống, đã làm vỡ tung những vỏ bọc bên ngoài con người ông. Người cần đến ông Da-kêu, như đã cần đến các ông Phê-rô, An-rê, và những người khác nữa như các cô Mác-ta, Ma-ri-a. Người cần đến họ để ở trong nhà họ, để sống với họ, biến họ thành những người bạn, những người anh em. Người cũng cần đến môỵi người chúng ta, Người muốn đến cư ngụ nơi chúng ta.
Thế nhưng, môỵi lần Đức Giêsu đến với một người nào thì Người trở thành người quấy rầy, người phá vỡ những tình trạng an toàn sẵn có. Những chuyện như thế không chỉ xảy ra nơi ông Da-kêu, nhưng còn nơi nhiều người khác như chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng. Chẳng hạn như Mác-ta, cô phải thay đỗi cách nhìn ; như ông Phê-rô buộc lòng phải thả lưới, như Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se phải lên đường về Bét-lem, rổi sau đó từ Bét-lem sang Ai-cập. Luôn là những con đường hướng đến nơi không biết trước, không an toàn, kèm theo một thái độ từ bỏ quyết liệt buộc con người phải ra khỏi mình để lao vào trong tấm lòng của Thiên Chúa.
Đức Giêsu cũng đang ở trong chúng ta: Người muốn lôi chúng ta xuống khỏi cái cây của chúng ta. Người muốn phá vỡ sự phòng vệ cá nhân của ta, Người muốn đập tan những gì chúng ta coi là cần thiết để giữ thể diện. Người đang nhìn chúng ta và thôi thúc chúng ta môỵi ngày. Để đáp lại, chúng ta phải để cho lòng thương xót của Người xâm chiếm, đổng thời cũng để niềm vui của chính Thiên Chúa tràn ngập tâm hổn chúng ta.
Nhưng Đức Giêsu ngỏ lời với chúng ta bằng cách nào? Nên nhớ rằng Thiên Chúa đã làm người để nói với chúng ta bằng ngôn ngữ loài người, ngôn ngữ bình thường của cuộc sống. Chúng ta có khát mong được nghe lời ấy không?
* * *
Con chẳng biết làm thế nào
để kính chào Chúa,
phải chăng là dùng luật lệ của con?
Lạy Chúa, xin chỉ dạy con đường nẻo của Chúa,
xin giải thoát con khỏi cảnh nô lệ
là sự điên rổ của con.
Xin hướng dẫn con, con vẫn còn đủ sức hạ mình,
trước khi chính con trở thành gánh nặng cho con.
theo J. Halevy [Mục Lục]
Cách đây không lâu, trên trang “Tuổi Biết Buồn”, tôi có đọc được đôi dòng tâm sự như sau: “Em năm nay 21 tuổi. Sang Mỹ được 3 năm. Năm đầu sống rất vui vẻ hồn nhiên, không buồn phiền gì về vấn đề tình cảm. Năm thứ hai thì con tim bắt đầu lúc lắc. Năm thứ ba em bắt đầu yêu thật. Em đã quen một anh tên A. Lúc đầu chỉ coi anh là anh trai, nhưng tình cảm len lỏi vào tim lúc nào không biết. Anh lo cho em từng li từng tí. Càng ngày em càng cảm thấy mến anh. Nhưng có điều anh hơn em đến cả 18 tuổi. Lấy anh thì cũng được, nhưng em lại sợ cái cảnh ‘cha già con mọn’. Thế rồi em lại quen một anh khác tên B. Anh này thương em, cũng lo lắng cho em. Hơn em chừng 7, 8 tuổi. Nhưng có điều cũng khó nghĩ vì B lại thấp hơn em, lại không có đạo nữa. Không trở lại, bố em không chấp nhận là cái chắc. Không lớn hơn vài 'inches' nữa thì tương lai của em sẽ không biết giầy, guốc cao gót là gì?”.
Đọc qua tâm sự đó, tôi chợt nhớ đến hình ảnh của một người rất thấp trong Phúc âm: Giakêu, một ty trưởng quan thuế tại thành phố Giêricô, nằm cách Giêrusalem 15 dặm về hướng đông bắc.
Giakêu không những được mô tả như một người thiếu thước tấc về thể xác, nhưng còn là kẻ quá thấp bé về tâm hồn, dưới cái nhìn của người Do thái. Không “thấp” lắm sao khi cấu kết với ngoại bang Rôma để vơ vét tài sản của dân tộc, đất nước! Không “bé” lắm sao khi đi làm giàu trên bao mồ hôi xương máu của những người lầm than khốn khổ!
Từ xưa đến nay, chẳng mấy ai ưa thích chuyện thuế má. Người Do thái lại càng chán ghét chế độ sưu thuế do chính sách đô hộ Rôma áp đặt. Số là tại các thuộc địa, để không phải trực tiếp bóc lột, chính quyền cai trị Rôma thường cho đấu thầu việc thu thuế tại từng khu vực. Tất nhiên chỉ có kẻ giàu mới có khả năng và mới có cơ may trúng thầu. Khi trúng, họ có quyền qui định mặt hàng cũng như giá thuế phải đóng. Lắm khi người trúng thầu phải ra giá thật cao để gỡ vốn. Và không ít khi cao thêm tí nữa để có lời. Thế nên, dân Do thái tự động xem hạng thu thuế là phường bán rẻ lương tâm, phá nước hại dân, làm giàu bất chính. Người ta tránh xa như gặp phải những con vật dơ nhớp, nguy hiểm. Thậm chí còn coi họ như quân ngoại đạo và tội lỗi.
Thành ra con người Giakêu hẳn là quá thấp bé trong tầm nhìn luân lý của những kẻ “đang bị bóc lột”. Đã vậy vóc dạng của ông cũng chẳng cao ráo sáng sủa gì. Lùn quá! Có nhón gót cũng chẳng thấy Đức Giêsu đâu. Đám đông che mất tầm nhìn của ông.
Mặt khác, danh xưng của ông còn khơi lên ý tưởng mỉa mai châm biếm khi nó tương phản với công luận. Giakêu là phiên âm từ chữ “Zakkay”, trong tiếng Do thái có nghĩa là “người công chính” hay “người thanh khiết”. Gọi một kẻ tội lỗi, nhơ uế là “công chính” và “thanh khiết”, nếu không phải là chế giễu và khinh bỉ thì là gì?
Nhưng dù thân xác và tinh thần có bị bao quanh bằng những hàng rào của mặc cảm tự ti, hay sự khinh thường ghét bỏ của dân chúng, lòng khát mong gặp Đức Giêsu đã như tác động đầu tiên đưa đến biến đổi và thăng hoa con người.
Ước ao nhìn mặt Đức Giêsu, đó là sự tò mò tự nhiên hay lời mời gọi của tình thương? Cứ tưởng tượng Giakêu xắn chiếc áo rộng thùng thình của một bậc trưởng giả để leo lên cây sung như một đứa con nít cũng đủ thấy đó là một khát khao vượt tính tự nhiên rồi. Phải chăng khi bị mọi người tránh xa, khi nghe đồn Đức Giêsu hay đến làm bạn với những kẻ không được thương yêu, trong ông đã hình thành nỗi niềm đi tìm yêu thương vỗ về.
Lòng khát khao mãnh liệt làm cho lòng Giakêu “cao lên” so với bao người chen chúc trong đám đông hiếu kỳ. Oâng muốn nhìn Chúa, nhưng đúng hơn, Chúa lại muốn tìm ông. Khi vừa đến chỗ cây sung có Giakêu đang trèo trên đó, Đức Giêsu “nhìn lên và trông thấy ông”. Giả như không có ánh mắt nhìn lên đó thì chuyện gì sẽ sảy ra? Có lẽ Giakêu cũng tuột xuống ra về trong âm thầm. Cái nhìn của Chúa làm biến đổi cuộc đời.
Nhìn và thấy diễn tả một sự chú ý kiếm tìm. Nhìn vào bao con người chen chúc chung quanh, với đủ mọi thành phần, trình độ, sang hèn, tuổi tác, nhưng Đức Giêsu lại chỉ thấy có một tâm hồn mà Ngài đang muốn tìm về. Niềm vui rạng rỡ đã bật thành lời: “Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19,5). Ngài đã tìm thấy “con chiên lạc” đang vướng trên cành, và lòng Ngài ngập tràn hân hoan.
Một nhà chú giải suy niệm: “Ôi chao! Ngày hôm đó, chắc là Đức Giêsu phải sung sướng hạnh phúc lắm! Còn vài cây số nữa là đến Giêrusalem. Còn vài ngày nữa là cuộc khổ nạn được dâng hiến để cứu chuộc con người. Mọi nỗi đơn độc chơ vơ của thập giá, mọi hình khổ Ngài sẽ gánh chịu, mọi vết thương xé nát bàn tay và đôi chân đẫm máu sẽ mang lại ơn ích cho nhân loại. Ngài biết điều đó. Ngài đã cứu thế gian khi tiến lên Giêrusalem. Và Giakêu là hoa trái đầu mùa”. (Noel Quesson)
Con tim cháy lửa yêu thương đã tìm gặp được tâm hồn khao khát thương yêu. Và thương yêu đã biến đổi phận người! Đúng là “gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình; Gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh”. Tình huynh đệ nảy sinh khi Giakêu tự nguyện “bố thí nửa phần gia tài cho người khổ đau”. Tình đệ huynh lại được hàn gắn khi Giakêu can đảm “đền trả gấp bốn cho người bị ông làm thiệt hại”.
Không gặp được Đức Kitô chẳng ai có đủ sức đền bù, chia sẻ, hay trao ban. Không có tình thương sưởi ấm chắc chắn chẳng ai có thể đổi đời. Nhưng khi có tình Chúa chiếu soi, người ta sẽ “cao lên” trong tình người. Và như thế, không ai có quyền kỳ thị hay gạt bỏ, vì họ cũng là “con cái của Abraham”. Không ai được phép xem họ như người ngoại hay kẻ lầm lạc, vì họ cũng là môn đệ của Tình Yêu Thiên Chúa.
Trở lại với lời tâm sự ban đầu. Thiết tưởng cao to thân xác mà thấp bé cõi lòng thì ăn thua gì. Mang danh có đạo mà không bác ái hy sinh thì cũng thiếu xót lắm thay. Thế nên, việc cần thiết nhất không phải là cao lùn, mập ốm, rửa tội hay chưa, nhưng là có được tình yêu đúng nghĩa chiếm ngự tâm hồn hay không.
Tình yêu đúng nghĩa chỉ có khi được Đức Giêsu lưu lại trong đời. Và như Lệ Vũ, người phụ trách “Tuổi Biết Buồn” xác quyết: “Tìm được tình yêu và yêu thật lòng, ba cái chuyện cao gầy, lùn mập, miệng méo, mắt Sài gòn, mắt Chợ Lớn, sẽ không thành vấn đề quan trọng”.
Xin tình yêu của Đức Kitô gặp gỡ đời con và đời người. [Mục Lục]
Khi còn học giáo lý rước lễ ở họ đạo, tôi được cha sở dạy rất kỹ về những việc mà hối nhân phải làm trước khi xưng tội gồm có: thật lòng ăn năn, xưng tội và thành tâm đền tội. Nhưng trong 3 việc đó thì ăn năn tội là điều quan trọng nhất. Ví ăn năn tội là đau đớn trong lòng và chê ghét tội đã phạm, dốc lòng chừa từ nay không phạm tội nữa. Tương tự như thế hình ảnh Giakêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta một bài học về “sám hối”. Đó chính là tấm lòng mà Thiên Chúa luôn cần nơi mỗi người và đặc biệt trong cuộc sống mỗi người phải biết sám hối vì “nhân vô thập toàn”.
Có câu chuyện kể rằng một cha sở nọ nằm mơ, thấy Đức Giêsu thăm giáo dân đang tụ họp trong nhà thờ. Khi Đức Giêsu ra về khuôn mặt Ngài rất vui và hớn hở. Cha mới chạy theo hỏi Đức Giêsu tại sao thế? Và Chúa đáp: vì có những người nói những lời hết sức đẹp ý Ta. Thưa Chúa đó là những lời nào vậy, những lời chúc tụng ngợi khen ư? Không phải. Vậy những lời ta ơn tri ân cảm tạ phải không? Chúa trả lời cũng không đúng nữa. Không chịu thua cha sở nọ lại hỏi tiếp: hay là những lời cầu xin Chúa ban ơn này ơn no cho họ? Chúa Giêsu lắc đầu: con đoán sai cả rồi họ đã nói với ta: “Lạy Chúa xin hãy tha thứ tội lỗi chúng con”. Câu nói của Giakêu trong bài Tin mừng hôm nay, cũng có nội dung tương tự như thế và nó còn thể hiện việc sám hối bằng cả hành động nữa “thưa Ngài, này đây là phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Do đâu mà những người giáo dân trong câu chuyện lại mau mắn sám hối như vậy. Vì lí do gì mà Giakêu lại quyết tâm hoán cải nhanh đến như thế. Chúng ta thấy cả hai đều có điểm chung là đã gặp được Chúa. Vậy để có thể sám hối tôi thiết tưởng phải cần có những yếu tố sau:
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu đặt chúng ta vào trung tâm vấn đề cơ bản của lòng chúng ta, làm sao nối lại tình thân với Thiên Chúa sau khi tội lỗi đã làm ta xa cách Ngài? Làm sao nhìn thấy Chúa Giêsu khi giữa ta và Ngài còn một “khoảng đám đông” đang chen lấn, mà ta lại là người đang “nhỏ bé như Giakêu”. Chúng ta không nên quá lo lắng về điều đó, vì Thiên Chúa luôn quan tâm đến mỗi người, nhất là những người tội lỗi “vì con người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Mt 19,10). Thiên Chúa không chờ ta quyết định đến với Ngài, Ngài đi bước trước và đến với ta trước. Hầu hết các sách Tin Mừng không trình bày việc gì khác ngoài việc Thiên Chúa đến với loài người và gặp gỡ họ. Như trong Bài Tin Mừng không phải Giakêu đã nhận ra Đức Giêsu trước, nhưng chính Đức Giêsu đã nhân ra Giakêu trên cây. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu đã quan tâm đến chúng ta hơn là chính Người. Đức Giêsu chỉ đi ngang qua Giêrikhô một lần thôi, Ngài cũng chỉ gặp Giakêu ở đó một lần thôi, nhưng trong đời chúng ta Ngài sẽ đến mãi trong từng giây phút, nếu ta chưa tiếp xúc được với Ngài.
Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Giêsu của Giakêu như bài học kêu gọi mỗi người chúng ta hãy làm một cuộc sám hối như thế, và biết rằng sám hối là một đặc ân Chúa ban, chính Chuá là người đi bước trước và có sáng kiến chứ không phải nơi chúng ta, đó là tiếng gọi của Chúa mà chúng ta có bổn phận phải đáp lại.
Thánh Augustinô đã nói: “Khi dựng nên con Chúa không hỏi con, nhưng khi dựng nên con Chúa phải hỏi con”, nghĩa là Thiên Chúa luôn cần đến sự cộng tác nơi con người, không những thế Thiên Chúa còn muốn con người cộng tác một cách chủ động và trưởng thành. Chúa không đòi ai cũng phải chờ đợi để leo lên cây sung, nhưng quan trọng là phải đi gặp Chúa trong chính hành động của mình. Giakêu luôn ao ước được gặp Chúa và chính lòng khao khát đó đã được Chúa cho thoã mãn. Nhưng để phá rào cản tội tội, rào cản mă#c cảm, và nhất là rào cản giữa con người với nhau thật sự không dễ chút nào. Chắc chắn Giakêu đã nghe Danh Đức Giêsu từ lâu và hằng ao ước đến chỉ để nhìn mặt thôi, nhưng kết quả thật không ngờ, ông được hưởng hơn những gì mà ông mong đợi và hơn thề nữa “ơn cứu độ đã đến cho nhà này”.
Giakêu được như vậy không phải do ông này nỉ, van xin, cũng không do công trạng lập được, lại không phải là một người tốt đáng khen, nhưng điều quan trọng là ông biết “đáp trả” lời Chúa mời gọi, trong khi những người được cho là tốt thì lại không biết làm. Như Giakêu chúng ta cũng hãy biết đáp trả tình yêu Chúa băng cách sám hối để được tha thứ và đổi mới cuộc đời, vì tình yêu Thiên Chúa luôn bai la rộng mở, dù chúng ta là ai, dù chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào, cuộc đời chúng ta có xấu đến đâu cũng không sao. Chúa sẽ tẩy xoá hết để mỗi người chúng ta sẽ là một giọt tình thường trong bể tình thương bao la của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết ăn năn sám hối mỗi ngày, để con xứng đáng đáp trả tình yê mà Thiên Chúa đã ban cho con. Amen. [Mục Lục]
Ranh giới giữa nhơ uế và thanh sạch
Trong đạo Do Thái, có một ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa tội lỗi và công chính... một ranh giới rất "thiêng liêng", mà chỉ có một đời sống luân lý nghiêm khắc mới có thể giúp người ta vượt qua được. Như thế, yếu tố luân lý trở thành yếu tố quan trọng nhất. Họ quan niệm cuộc đời con người như một cuộc thi cử, ai đủ điểm trung bình thì vượt qua được ngưỡng cửa thi cử, đó là thi đậu; ai không đủ điểm thì không thể vượt qua và là thi rớt. Cách phân chia này làm cho người nào chưa vượt qua được mức trung bình thì sợ hãi; người nào vượt qua được mức trung bình thì yên tâm, an nghĩ và thỏa mãn với đời sống của mình.
Chúa Giêsu nhiều lần phá bỏ ranh giới "siêu hình" này, vượt qua ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế. Chúa Giêsu tiếp xúc với những người thu thuế, ăn cơm với họ, Ngài để cho người đàn bà tội lỗi lấy tóc lau chân. Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa chẳng từ nan để vượt qua những ranh giới úy kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh thiện và tội lỗi... để gặp gỡ những người Ngài yêu thương và kiếm tìm.
Không phải luân lý nhưng là ơn cứu độ
Ở đây cũng thế, Chúa Giêsu đã đi bước trước, Ngài vượt qua cái úy kỵ của người biệt phái: bị nhơ uế vì tiếp xúc với người tội lỗi, Ngài thân hành đề nghị trú ngụ ở nhà ông Giakêu, dù lúc đó ông chưa có "hành vi sám hối".
"Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất"
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống đạo: điều chính yếu của Tin Mừng Đức Giêsu chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải nỗ lực luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp cho ông Giakêu sám hối và tìm được một đời sống luân lý tốt đẹp, chứ không phải ngược lại.
Chính vì thế, Luca hay nêu lên cái ngày hôm nay của ơn cứu độ; và mỗi khi Kinh Thánh nói tới "hôm nay", thì có nghĩa là một điều gì mới của Thiên Chúa được thực hiện trong cuộc sống con người.
"Hôm nay nhà này được cứu độ"
Ơn Cứu độ tặng-không
Trong thư Roma (5, 8), thánh Phaolô đã từng nói rằng: "Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta"
Điều đó được thể hiện trong trình thuật Chúa Giêsu đến với Giakêu hôm nay. Điều "cần thiết" của Giakêu chỉ thái độ sẵn sàng để đón nhận hồng ân của Chúa. Một thái độ sẵn sàng, một lòng tin đơn thành, một sự chân nhận tình yêu của Thiên Chúa, đó là những điều thuộc về tự do của con người mà Thiên Chúa không muốn ép buộc. Với những ai sẵn sàng, Chúa Giêsu nhìn thấy con người đó trong dòng dõi những người tin; "bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham", và Ngài nhận thấy họ chính là đối tượng sứ vụ Ngài; bởi vì: "Con Người đến là để tìm và cứu vớt những gì hư hỏng".
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Không phải con đến với Chúa,
nhưng là Chúa đến với con trong bí tích Thánh Thể hôm nay.
Con đến nhà thờ hôm nay như bày tỏ một chút thiện chí của con;
những gì còn lại, là ơn cứu độ, là sự thay đổi đời sống,
xin Chúa rộng lòng ban cho con
như Chúa đã ban cho ông Giakêu khi xưa. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Ignatio Trần Ngà)
Đứng trước tội nhân hay những người sa ngã, hư hỏng, dư luận xã hội thường lên án, khinh miệt, loại trừ… Đó là thái độ vốn có của những người Do-thái có tiếng là đạo đức như các thầy tư tế, các luật sĩ và biệt phái đối với những người tội lỗi như Giakêu.
Ngay cả Chúa Giêsu, dù Người chỉ tiếp đón những người tội lỗi thôi thì cũng đã bị tai tiếng rồi. Khi “Các người thu thuế và các người tội lỗi lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." (Lc 15, 1-2)
Chính thái độ khinh thị và loại trừ người tội lỗi như thế lại càng xô đẩy người sa ngã lún sâu hơn trong tội lỗi của mình. Cư xử như thế là dìm xuống chứ không phải là nâng lên. Còn về phần Chúa Giêsu, Người có cách cư xử rất đẹp đối với người tội lỗi và chính cách cư xử cao nhã nầy có một sức cảm hoá thần diệu. Cung cách đối xử của Chúa Giêsu là niềm nở tiếp đón và trân trọng họ, coi họ như bạn bè. Thế nên dư luận hồi ấy đã xem Ngài “là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” (Mt 11,19)
Chúa Giêsu thừa biết Giakêu là ai và thuộc hạng người nào, nhưng Chúa Giêsu không nhìn Giakêu bằng ánh mắt khinh miệt của người Do-thái, nhưng đối xử với ông bằng tấm lòng trân trọng và yêu thương.
Khi thấy Giakêu vắt vẻo trên cành cây chờ xem Chúa Giêsu đi qua, Chúa vui vẻ thân mật vẫy chào ông trước: "Này ông Giakêu…”
Chúa Giêsu gọi đích danh ông như đã từng quen biết từ lâu. Việc gọi tên thân mật nầy khiến ta nhớ lại lời Chúa Giêsu nói về quan hệ gắn bó giữa người chăn chiên tốt và đoàn chiên của mình: “Chiên nghe tiếng của anh và anh gọi tên từng con chiên” (Ga 10,3).
Rồi Chúa Giêsu tiếp: “Xuống mau đi!” Đây không hẳn là lời thúc giục mà chỉ là lời thân mật giữa bạn bè. Rồi Chúa Giêsu lại muốn thắt chặt mối tình bằng hữu qua việc cùng ăn uống đồng bàn với Giakêu, và hơn thế nữa, đề nghị ở lại tại nhà ông để rộng giờ hàn huyên tâm sự: “Hôm nay, tôi sẽ ở lại nhà ông.”
Sáng kiến tình yêu của Chúa Giêsu lúc đó chắc hẳn phải khiến cho Giakêu sửng sốt. Một bậc thầy khả kính và danh tiếng như Đức Giêsu mà lại đến trọ tại nhà một người tội lỗi như Giakêu ư? Chuyện thực mà tưởng như mơ! Thế là Giakêu vô cùng sung sướng đón tiếp Đức Giêsu vào nhà mình.
Thái độ yêu thương, trân trọng và quý mến của Đức Giêsu đối với Giakêu đã làm cho ông đổi đời thật sự, một sự thay đổi tận căn ít ai ngờ tới.
Bấy giờ Ông Giakêu đứng lên thưa với Chúa rằng : "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn."
Dám đem nửa phần gia sản lớn lao của mình trao ban cho người nghèo khó, lại chấp nhận đền gấp bốn những thiệt hại đã gây ra… quả là một quyết định anh hùng! Thế là từ một người đáng khinh, Giakêu bỗng trở thành một người rất đáng khâm phục!
Kho tàng văn học thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.
Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!” Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.
Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.
Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người rất khôn khéo mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Giakêu, biến cải một con người tưởng là ‘hết thuốc chữa’ trở thành một người mới rất đáng khâm phục.
Lạy Chúa Giêsu, trước người lầm lỗi,
Xin cho chúng con thay thế những lời kết án bằng những lời lẽ yêu thương;
Xin cho chúng con biết thay đổi cái nhìn khinh khi bằng cái nhìn tôn trọng;
Xin cho chúng con biết thay thế thái độ xa lánh bằng thái độ tiếp đón ân cần…
Nhờ đó, chúng con sẽ tạo cơ hội cho nhiều anh em lầm lỗi có cơ may phục thiện và đổi mới cuộc đời. [Mục Lục]
Người ta thường nói: “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”, Để sửa chữa hay thay đổi một người nào đó là một điều rất khó. Ngược lại nếu không khéo chúng ta lại càng làm cho ra thêm tệ hơn. Trong thực tế, có những người nói hay, nói khéo, khuyên giỏi... nhưng kết qủa không mấy khả quan, mà còn làm cho cho họ càng khép kín, bảo thủ, trở nên oán hận và chai cứng tâm hồn.
Hôm nay, Đức Giêsu với đường lối sư phạm đại tài, Ngài đã từng bước hoán cải một người thu thuế bị xếp chung với hạng trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Vậy Đức Giêsu đã làm gì mà lại có sực mạnh biến đổi kỳ lạ như thế?
Thông thường người có tội hay lẫn trốn, tránh xa những người được cho là công chính. Ở đây Giakêu lại càng không dám trực tiếp gặp thầy Giêsu, ông cũng không hoà nhập được với dân, ông như bị cô đơn giữa một rừng người xa cách không ai quan tâm đến ông. Lúc mà mọi người không ai để ý đến, không ai quan tâm đến thì Đức Giêsu lại quan tâm. Điều đó quá lạ đối với suy nghĩ của ông, từ trước đến giờ ông không bao giờ dám nghĩ đến: Chúa lại tìm một người “đứng đầu những người thu thuế” như mình. Dù đang mang mặc cảm tội lỗi, dù đang bơ vơ lạnh lẽo, ông vẫn cảm thấy ấm lòng vì được Thiên Chúa quan tâm, trong cuộc sống những người tội lỗi vẫn thường hay tự ty xa cách, họ không thể hòa mình với mọi người, họ vẫn cảm thấy cô đơn vì bị người khác bỏ rơi. Những điều đó càng làm cho họ ngày càng lún sâu vào vũng lầy tội lỗi, không có ai đưa bàn tay để kéo họ lên. Vậy những lúc tuyệt vọng, những lúc chúng ta không còn chỗ nương tựa chúng ta hãy biết chạy đến cùng Chuá, cho dù tất cả bỏ rơi chúng ta thì Thiên Chúa vẫn cưu mang chúng ta, vì lúc nào Ngài cũng đang “nhìn” chúng ta, quan tâm chúng ta
Dân chúng cứ nghĩ Đức Giêsu sẽ quở trách Giakêu về những việc làm xấu xa của ông. Nhưng Đức Giêsu không những không quở trách mà còn muốn dùng cơm tối ở nhà ông. Việc làm đó không chỉ làm cho dân chúng kinh ngạc về cách hành xử của Đức Giêsu, mà cả Giakêu nữa cũng bị bất ngờ. Ông đã thay đổi tâm hồn từng bước một, bắt đầu từ lúc Đức Giêsu nhìn thấy ông, gọii ông rồi còn lưu lại nhà ông. Đáng lẽ ông là tội nhân đáng bị trừng phạt và lên án, thì Đức Giêsu lại đến với ông bằng sự tín nhiệm yêu thương, vì Người đến không phải để lến án nhưng là để cứu chuộc.
Thiên Chúa luôn nhìn người tội lỗi với một cắp mắt bao dung, Ngài không để tội nhân đi vào con đường bế tắc mà mở cho họ một hướng đi trong tương lai, Ngài tin ở sự hoán cải, nơi người tội nhân. Chính đường lối sư phạm này mà Thiên chúa đã làm cho Giakêu quay lại 180 độ. Từ một người tội lỗi trở thành tốt, nhưng để được thay đổi tâm hồn con người không phải “ngồi để chờ xung rụng”, mà phải có thiên chí, có lòng hoán cải ao ước thật sự... Vậy chúng ta hãy đến xin Chúa để người thay đổi cuộc đời, vì con người chỉ có thể đổi mới khi có ơn Chúa ban. Hơn nữa, Thiên Chúa lại luôn quan tâm đến tội nhân. Vì thế, chúng ta phải đáp lại tiếng gọi của Chúa, sự trông đợi của Người... thì công việc mới hoàn thành cho dù chúng ta có tội lỗi xấu xa có đáng ghét đến dâu đi nữa thì thiên Chúa vẫn chờ đợi chúng ta
Lạy Chúa, “không có một ông thánh nào mà không có quá khứ, không có tội nhân nào lại không có tương lai”. Xin Chúa cho con đừng vì quá khứ mà trở nên xấu xa. Nhưng cho con giống Giakêu biết hướng đến tương lai, nhờ ơn Chúa tất cả chúng con trở thành con người mới. [Mục Lục]
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng
Chúng ta đổi công việc, đổi nhà, thay xe…, nhưng nói đến đổi mới cuộc đời thì ít ai muốn thực hiện. Có nhiều lý do, nhưng có lẽ lý do đáng kể nhất đó là người ta không muốn mạo hiểm và cố gắng. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một cuộc đổi đời đầy mạo hiểm và nỗ lực về phía ông Giakêu, nhưng quan trọng hơn chính là vai trò và ảnh hưởng của Chúa Giêsu trong cuộc thay đổi này.
Câu chuyện xảy ra tại Giê-ri-khô, một thành phố nằm phía đông Giê-ru-sa-lem và gần Biển Chết. Thành phố đông dân cư, buôn bán phồn thịnh. Cho nên ông Giakêu đứng đầu những người thu thuế ở đây thì nhất định phải là người giàu có rồi. Dân chúng khinh dể ông, còn gọi nhà ông ở là “nhà người tội lỗi”. Chúng ta không rõ lý do nào khiến ông “tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai”. Rất có thể vì ông đã nghe nói “các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng” và Người còn “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lu-ca 15:1-2). Tuy nhiên lần này cộng thêm với việc ông tìm cách gặp Chúa, thì chính Chúa lại chủ ý đi tìm ông. Ông nấp ở trên cây sung, không ai nhìn thấy ông. Nhưng Chúa Giêsu không cần ai mách bảo, Người chủ động nhìn lên và kêu ông xuống. Trong cuộc đổi đời này, cả ông Giakêu lẫn Chúa Giêsu đều đích thân tìm đến với nhau. Chúa Giêsu đã mở đầu diễn tiến cho cuộc thay đổi khi Người đề nghị trước: “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Dường như Chúa muốn ngầm bảo ông: Tôi đã tóm được ông rồi. Giả như ông có đuổi, tôi cũng không đi! Hôm nay tôi ở lại với ông, để bắt đầu cho việc ở lại vĩnh viễn suốt cuộc đời ông! Đúng vậy, chỉ có sự hiện diện của Chúa mới giúp cho cuộc đổi đời thành công. Khi người ta có mối tương quan với Chúa, tương quan ấy sẽ có sức mạnh biến đổi họ. Gần đèn thì rạng là thế. Đáp lại đề nghị của Chúa, ông Giakêu “vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người”.
Trong cảnh kế tiếp của câu chuyện, thánh Luca mô tả một ông Giakêu mới. Chúa và ông Giakêu đứng đó trước mặt mọi người. Mặc cho bao con mắt soi mói, ông chỉ biết có Chúa Giêsu hiện diện mà thôi. Ông công khai “xưng tội” với Chúa và trước mặt mọi người. “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em”. Ông nhìn nhận mình đã ăn cướp của người nghèo nên giờ đây ông lấy phân nửa tài sản để trả lại cho người nghèo. Ông thú nhận đã chiếm đoạt nhiều thứ của người khác nên ông tự nguyện xin đền gấp bốn. Quả thực ông đã trở thành con người mới rồi, tất cả là nhờ gặp gỡ Chúa Giêsu! Về phần Chúa Giêsu, Người trang trọng nhìn nhận sự thay đổi của con người Giakêu. Chúa Giêsu trước hết nói về cuộc biến đổi của cái nhà: “nhà người tội lỗi” giờ trở thành “nhà tiếp nhận ơn cứu độ”. Rồi Chúa nói đến sự biến đổi con người. Từ một “người tội lỗi” và bị đồng bào loại trừ khỏi cộng đồng con cháu Áp-ra-ham, bây giờ ông Giakêu được Chúa phục hồi quyền làm “con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sau khi nhìn nhận cuộc đổi đời của ông Giakêu, Chúa Giêsu đã khẳng định lại vai trò của Người: “Con Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã mất”. Lời này của Chúa làm cho chúng ta vững tâm thay đổi cuộc sống. Chúng ta “đã mất” trong nhiều phương diện, nhất là mất đi căn tính làm con cái Chúa. Thường chúng ta không đổi đời một cách nhanh chóng và ấn tượng như trường hợp ông Giakêu, nhưng là cuộc biến đổi từ từ, liên tục và kéo dài cả một đời. Dù thế nào đi nữa, vai trò sự hiện diện của Chúa Giêsu và cố gắng của chúng ta vẫn là những yếu tố chính để việc biến đổi được tiếp tục. Hơn lúc nào hết, hình ảnh “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Philípphê 4,10) mà thánh Phaolô nêu lên luôn là hình ảnh sống động nhất diễn tả tiến trình thay đổi. Có lẽ chúng ta sử dụng hình ảnh này mỗi ngày trong cuộc xét mình buổi tối, nhìn lại một ngày sống để xem cuộc đổi đời của chúng ta tiến triển như thế nào.
Chúa Giêsu lúc nào cũng muốn đến để tìm và cứu chữa chúng ta. Cũng như ông Giakêu, chúng ta chỉ cần mở tâm hồn đón Chúa. Chúa muốn ở lại với chúng ta, nên chúng ta hãy để cho người tiếp tục ở lại và thực hiện cuộc tìm và cứu chữa này. [Mục Lục]
CHÚA NHẬT 30 TRUYỀN GIÁO năm C
Lc 24,44-53
44 Rồi Người bảo: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm." 45 Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh 46 và Người nói: "Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; 47 phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. 48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này. 49 "Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống." 50 Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. 51 Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. 52 Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, 53 và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
TRUYỀN (Chuyển giao, Loan báo)
TRUYỀN là loan báo chuyển giao.
Người chuyên thông thạo giảng rao mới thành.
Chiết Tự TRUYỀN
TRUYỀN (chuyển giao, rao giảng) được ghép bởi hai chữ NHÂN (người), CHUYÊN (thông thạo, biết rõ). Được hiểu là muốn chuyển giao hoặc giảng giải cho ai điều gì thì đầu tiên chính mình phải biết rõ, thông thạo. “Trăm hay không bằng tay quen” là vậy. “Không thể cho điều mình không có”.
Phân Tích Từ GIAO
Từ chiết tự Hán Văn dưới ánh sáng Tin Mừng (đối chiếu từ ngữ *) chúng ta có được phân tích từ GIAO của tiếng Việt như sau:
G: Gắn kết: Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu. (Ga 15,27)
I: Yêu mến:"Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống." (Lc 24,49)
A: Am tường: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28,19-20)
O: Ôm ấp: Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. (Lc 24,52-53)
Vì chỉ có thể cho người khác những gì mình có; nên người Truyền Giáo, giao, trao Chúa cho người khác phải thực sự gắn kết, nghĩa là phải am tường và yêu mến Chúa chân thành, cùng ôm ấp ước muốn làm cho Chúa được yêu mến hơn. Vì những ý đó người truyền giáo đích thực là người có Chúa trong mình và sẽ có nhiều sáng kiến để giới thiệu, trao Chúa cho anh chị em mình.
Xin Chúa chúc lành cho mỗi chúng ta, luôn thiết tha gắn kết với Chúa qua cầu nguyện và học hỏi giáo lý, để có thể giới thiệu và làm chứng về tình thương của Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Ước chi được như vậy.
Lm. JB. Trần Đinh Tử
THÁNH TÊRÊXA HÀI ĐỒNG GIÊSU,
BẬC THẦY TRONG NGHỆ THUẬT TRUYỀN GIÁO
Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã được phong thánh năm 1925, tức 28 năm sau khi từ trần. Ngài được chọn làm bổn mạng các xứ truyền giáo cùng với thánh Phanxicô Xaviê năm 1927 và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nâng lên hàng Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 19 tháng 10 năm 1997.
Khi tuyên bố thánh Têrêxa là tiến sĩ Hội Thánh, là bậc thầy trong đời sống đức tin, điều đó cũng có nghĩa Đức Giáo Hoàng muốn nói với các tín hữu toàn cầu rằng: Têrêxa là bậc thầy trong nghệ thuật truyền giáo.
Khi chiêm ngắm thánh nữ Têrêxa như là bậc thầy nghệ thuật truyền giáo chúng ta sẽ thấy xuất hiện một nghịch lý. Nghịch lý ở chỗ tại sao một nữ tu nhà kín suốt đời sống trong bốn bức tường mà lại được chọn làm bổn mạng cho các xứ truyền giáo?
Nói đến truyền giáo là nói đến hai động từ Đi và Nói.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Anh em hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân". Sách Ngôn sứ Isaia viết: "Vinh quang thay, những bước chân đi truyền rao Tin Mừng ơn cứu độ". Phải đi, nhưng Têrêsa không đi đâu cả, 15 tuổi đã vào dòng kín. Người nữ tu trẻ tuổi qua đời lúc mới 24 tuổi, sau 9 năm vào dòng Cát minh.
Thánh Phaolô bảo rằng: "Làm sao người ta tin nếu không nghe nói. Làm sao người ta nghe nói nếu không có người đi rao giảng. Làm sao có người rao giảng nếu không có ai được sai đi". Nhưng Têrêsa lại không nói gì với ai. Đời sống của các nữ tu Dòng Kín thì rất nghiêm ngặt.
Như thế xem ra rất nghịch lý. Một nữ tu Dòng Kín chẳng đi đâu, chẳng nói với ai mà lại được chọn làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
Chính từ cái nghịch lý ấy mà chúng ta khám phá ra điều này: Giáo Hội mời gọi hãy thay thế câu hỏi truyền giáo làm gì? bằng câu hỏi là gì? Nếu nói làm gì với Têrêxa thì không đúng, vì thánh nữ Têrêsa chẳng làm gì cả. Nếu đặt câu hỏi Têrêxa là ai thì lập tức ta sẽ khám phá ra chiều sâu trong đời sống của thánh nữ. Ngài trở thành bậc thầy trong nghệ thuật truyền giáo nhờ sống trọn vẹn tình yêu và đi bằng con đường nhỏ.
Khi đọc thư thánh Phaolô, Têrêxa khám phá ra điều này: Giữa lòng Giáo Hội có một trái tim rực cháy tình yêu. Nếu không có tình yêu các tông đồ sẽ không ra đi loan báo Tin Mừng. Nếu không có tình yêu các vị tử đạo đã chối từ đổ máu. Cho nên tình yêu là tất cả. Tôi cảm thấy tình yêu thấm vào trái tim tôi. Tôi cảm thấy cần phải quên mình để làm đẹp lòng tha nhân. Và kể từ đó, tôi sống hạnh phúc. Và Ngài nói thêm: Giữa lòng Hội Thánh tôi sẽ là tình yêu. Vì thế tôi sẽ là tất cả. Têrêxa đã sống và âm thầm loan truyền sứ điệp của mình là yêu và chấp nhận được yêu. Càng ngày càng trở nên nhỏ bé để được Thiên Chúa bồng bế trên tay Người. Đời sống tận hiến làm hy lễ tình yêu lân tuất của Thiên Chúa. Tận tụy làm vinh danh Giáo Hội bằng cách cứu vớt các linh hồn. Nghệ thuật truyền giáo của Têrêsa chính là tình yêu. Không đi đến đâu, không nói với ai, nhưng chỉ yêu thôi. Chính Têrêxa đã sống một tình yêu mãnh liệt đối với Thiên Chúa, đối với tất cả mọi người. Têrêxa cầu nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, con mong ước được yêu mến Chúa như chưa từng bao giờ Chúa được yêu mến như thế. Con ước mong làm cho mọi người cũng yêu mến Chúa như thế ". Biết mình nhỏ bé, Ngài luyện tập những nhân đức bé nhỏ. Thích âm thầm chuyên lo làm vui lòng Chúa bằng những hy sinh nhỏ mọn mà chỉ một mình Chúa biết. Ngài không bỏ qua một dịp hy sinh nào có được và cố gắng làm cho đời mình thành một cuộc tử đạo vì tình yêu Chúa. Chẳng hạn: uống thuốc đắng từng giọt để "kéo dài một việc hãm mình nhỏ mọn"; trong công việc chung, chọn những phần khó nhọc hơn, hay khi trời nóng, chọn nơi ngồi bất tiện hơn cho mình để dành chỗ mát mẻ cho chị em; chấp nhận cho kẻ khác đến quấy rầy mình; tránh tìm kiếm tiện nghi, v.v. Có tình yêu thì việc nhỏ sẽ trở thành việc có giá trị lớn. Thánh nữ gọi làm những việc như thế là "tung hoa" cho Chúa: "Vâng lạy Đấng lòng con yêu mến, cuộc đời con sẽ tiêu hao như vậy đó ... Con không có phương pháp nào khác để minh chứng với Chúa tình yêu của con ngoài việc tung hoa, nghĩa là không để mất một hy sinh nhỏ nào, một cái nhìn nào, một lời nói nào; con sẽ lợi dụng tất cả mọi việc nhỏ nhặt nhất và làm chúng với cả một tâm tình yêu mến... Con muốn chịu đau khổ vì yêu mến, như vậy con sẽ tung hoa trước ngai Chúa; hễ gặp bất cứ bông hoa nào là con cũng rứt cánh dâng cho Chúa ... rồi tay thì tung hoa, miệng thì ca hát (làm sao có thể khóc được khi làm một việc vui như thế), và con sẽ hát ngay cả khi phải hái những bông hoa giữa gai góc, mà gai góc càng dài càng đâm đau bao nhiêu, tiếng hát của con càng du dương bấy nhiêu.... Ôi Giêsu của con, con mến Chúa, con yêu Giáo Hội Mẹ con; con nhớ rằng "hành động nhỏ bé nhất mà do tình yêu tinh tuyền sẽ có ích hơn là tất cả những công trình khác hợp lại với nhau' (Thủ bản Tự Thuật).
Khi Têrêxa chọn một lối sống như thế thì chính tình yêu đã chắp cánh cho Ngài đi khắp nơi và nói chuyện với mọi người. Tình yêu làm nên như thế, không đi bằng bước chân nhưng đi bằng trái tim. Không nói bằng lời nhưng nói bằng cầu nguyện. Thiên Chúa đã ban cho Têrêxa một huyền nhiệm về tình yêu. Têrêxa đã đến với mọi người, đến với mọi trái tim. Têrêxa đã sống nghệ thuật truyền giáo theo nghĩa như thế.
Chẳng bao lâu, sau khi Têrêxa qua đời, tiếng tăm của Ngài đã vang lừng khắp Giáo Hội làm dấy lên một phong trào rầm rộ những người đi theo "con đường thơ ấu thiêng liêng" của Ngài. Đó là một trong những "trường tu đức" (linh đạo) quan trọng nhất của Giáo Hội thời hiện đại. Theo thánh nữ, làm thánh không phải là những chuyện phi thường mà đơn giản chỉ là chấp nhận để Thiên Chúa yêu thương mình. "Con đường thơ ấu thiêng liêng" là một sứ điệp phù hợp với thời đại, nhất là với giới trẻ.
Thánh Têrêxa đã khám phá lại chân lý trọng tâm của Phúc Âm, đó là: trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta được làm con cái Thiên Chúa, và chúng ta phải yêu mến Cha chúng ta trên trời như những đứa con thảo đầy tin tưởng và phó thác. Thánh Têrêxa bám chắc vào giáo lý này với tất cả sức lực của Ngài và cố gắng thực hành nó gần như sát mặt chữ. Sống thật sự như trẻ thơ là cách chắc chắn nhất, đơn giản nhất để làm đẹp lòng Chúa Cha. Ngài vui mừng vì mình bé nhỏ bởi vì Chúa Giêsu đã dạy chỉ các trẻ em và những ai giống như chúng mới được vào Nước Trời. Đứa bé càng nhỏ, càng yếu đuối thì lại càng phải và có thể cậy dựa vào lòng thương xót, sự giúp đỡ và chăm sóc tận tình của cha mẹ và những người khác chung quanh.
Têrêxa viết trong Thủ Bản gởi Mẹ bề trên Mari Gôngdaga năm 1897: "Thưa Mẹ, như Mẹ biết, con hằng ước ao được nên thánh, nhưng than ôi, mỗi lần sánh mình với các thánh, con đều nhận thấy giữa các ngài và con có một khoảng cách như giữa một ngọn núi cao chót vót và một hột cát ti tiện dưới chân khách bộ hành. Nhưng thay vì thối chí, con lại tự nhủ: Chúa không khơi dậy những ước muốn không thể thực hiện được; dù thấp hèn, con cũng vẫn có thể khao khát nên thánh. Tự làm cho mình lớn lên thì không được, nên con có thế nào thì đành phải chịu như vậy với tất cả những khuyết điểm của con. Nhưng con muốn tìm ra một phương pháp lên trời bằng một con đường nhỏ vừa thẳng lại vừa ngắn, một con đường nhỏ hoàn toàn mới. Chúng ta đang ở trong thế kỷ phát minh, bây giờ không phải leo từng bậc thang nữa; những nhà giàu có đã thay những thang cổ điểm bằng thang máy, thật là tiện lợi. Phần con, con cũng muốn kiếm một cái thang máy để nâng con lên tới Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ quá, chả sao lên được cái thang trọn lành dốc dác. Thế rồi con đi tìm trong Sách Thánh ... và con đã đọc những lời sau đây phát xuất từ miệng Đấng Khôn Ngoan muôn đời: 'Ai thật bé nhỏ thì hãy đến với Ta' (Cn 9,4).... Thế rồi con đã đến vì con đoán con đã gặp được điều con đang tìm kiếm ... Chiếc thang máy đưa con lên tận trời là chính đôi cánh tay Chúa đấy, Chúa Giêsu ôi! Vì thế mà con chả cần phải lớn lên, trái lại con cần phải cứ bé hoài và càng ngày sẽ càng bé dần đi mãi. Ôi lạy Chúa, Chúa đã ban cho con hơn sự con mong đợi, và con, con muốn ca ngợi lòng thương xót của Chúa..." (Thủ bản Tự Thuật).
Áp dụng "phương pháp lên trời" hay sử dụng "chiếc thang máy" này, thánh Têrêxa không cần phải tìm kiếm những việc cao siêu, to tát, nổi bật, chỉ cần rèn luyện cho mình thái độ làm con, và làm con bé nhỏ của Cha trên trời, ấy là hết lòng yêu mến, tin tưởng, phó thác. Mọi sự đều để mặc Cha lo, dù đầy khuyết điểm hay tội lỗi cũng không sợ! Càng tiến sâu vào con đường này, Ngài càng được tình yêu Chúa chiếm đoạt trọn vẹn hơn. Thánh nhân đưa tình yêu đó thấm nhuần mọi việc làm, mọi khó khăn thử thách gặp phải, mọi sự khó chịu của cuộc sống chung. Biến tất cả thành những lễ vật dâng lên Chúa. Thánh Têrêxa đã đưa lý tưởng nên thánh đến gần và vừa tầm với mọi người.
Nghệ thuật truyền giáo của Thánh Têrêxa là tình yêu và con đường nhỏ.Tình yêu là tâm điểm, là nguyên tắc, là tận cùng của con đường thơ ấu thiêng liêng. Sống tâm tình con thảo với tất cả tình yêu, người Kitô hữu thực thi sứ vụ truyền giáo của mình theo Gương Thánh Têrêxa.
Đức Giáo Hoàng Piô XII, hồi còn là Hồng y Pacelli, năm 1925 là đại diện Tòa Thánh sang Pháp nhân dịp phong Thánh cho Têrêxa và làm phép đền thờ Lisieur được xây cất kính Thánh nữ, đã nói: “Hỡi Thánh nhỏ, Người lớn lắm, ngay lúc này đây, từ đầu thế giới này sang đầu thế giới kia, con cái của Người nhiều như cát biển sao trời. Bốn vị Giáo hoàng đã quỳ cầu khẩn dưới chân Người, các nhà tiến sĩ luật học đã trở lại thiếu thời vì học với Người... Xin Người hãy mưa hoa hồng xuống nữa, xuống thế giới chúng tôi... Hỡi Thánh nhỏ, Người lớn lắm”.
Đức Giáo Hoàng Piô X đã chỉ vào chân dung Têrêxa và nói: Đây là vị Thánh lớn nhất hiện đại.
Con đường nên thánh của Têrêxa khởi đi từ Phúc Âm. Con đường nhỏ của một vị Thánh lớn. Nhiều người đã đi và đã nên hoàn thiện đời mình. Nhiều người đã sống và trở nên những nhà truyền giáo cho muôn dân.
Tháng 10 còn là tháng truyền giáo
Bước vào tháng 10 tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy khám phá lại nét đẹp của lời Kinh này và siêng năng đọc kinh Mân Côi cầu cho nền hoà bình trong thế giới. Tháng 10 còn là tháng truyền giáo. Giáo hội cũng kêu gọi con cái mình dấn thân cho những công cuộc truyền giáo, bước theo Chúa Giêsu trong cuộc hành trình Đức Tin, và có Mẹ Maria Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi Mân Côi và là Nữ Vương truyền giáo đi đầu dẫn đưa tất cả chúng ta đến với Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế và dạy chúng ta mang Chúa đến cho tha nhân.
Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.
Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: "Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa... trong ngày sau hết" (x. Is 1, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết rằng: "Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi" (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo, nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: "Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con" (Gn 20,21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo Hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Đây là một sứ mạng duy nhất, một sứ điệp duy nhất, phát xuất từ Thiên Chúa và được gởi đến cho mọi người, ngõ hầu họ được cứu chuộc khỏi tội lỗi và trở nên con cái Thiên Chúa.
"Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy cho các con" (Mt 28,19-20).
"Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ" (Mc 16, 15-16).
"Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy" (Lc 24, 46-48).
"Như Cha đã sai Thầy, Thầy sai anh em" (Ga 20,21). "Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hay nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20,22).
Đức Thánh Cha Phanxicô viết: "Rao giảng Tin Mừng là phần cơ bản của các môn đệ Đức Kitô và là một sự dấn thân liên tục giúp sinh động hoá đời sống của Hội Thánh" (Sứ điệp truyền giáo 2013, số 1)
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là bổn phận của "toàn thể Giáo hội", vốn "bởi bản chất là thừa sai" (Ad gentes, 2). Trích dẫn lời Đức Phaolô VI, ngài tiếp: "Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người."
Đức Bác Ái như là linh hồn của sứ mạng truyền giáo.
Thánh Phaolô viết:"Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi" (x. 2 Co 5, 14). Đức Kitô thúc bách chúng ta những người đã chịu phép Rửa tội nam phục cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu và những người nghèo, khi đã đón nhận Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng Tình yêu ấy và mang đến cho tất cả mọi người Tình yêu ấy, bằng lời nói và bằng chứng tá cụ thể của đức bác ái. Truyền giáo là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người Ngài gặp gỡ, mà còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải tình yêu đó, nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài tình yêu đó đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thể nhân loại.
Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, Chân phước Gioan Phaolô II đã nói: "Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình...nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em". Ngài cũng đã khuyến khích mọi thành phần Giáo hội, hãy can đảm khởi hành "mùa truyền giáo mới", vì "Giáo Hội cần đến với con người, với sự tế nhị và tôn trọng của một người phục vụ. Và Giáo Hội tin tưởng rằng công việc phục vụ trước tiên và cao cả nhất là công việc rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô", ngài kêu gọi: "Anh chị em đừng sợ: hãy mở toang mọi cửa để tiếp đón Chúa Kitô"(Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).
Cử hành ngày Thế giới Truyền giáo năm nay trong khi chuẩn bị bế mạc Năm Đức Tin. Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong sứ điệp của mình rằng: " Đức tin là hồng ân của Chúa. Tuy nhiên đức tin cần được đón nhận. Vì Đức tin là một ân huệ mà không ai được giữ cho riêng mình, nhưng phải được chia sẻ" (số 1)...Nếu chúng ta chỉ muốn giữ lấy nó cho riêng mình, chúng ta sẽ trở thành những Kitô hữu bị cô lập, khô cằn và ốm yếu.
Kỷ niệm 50 năm ngày khai mạc Công đồng Vaticanô II, Năm Đức Tin thúc đẩy toàn thể Hội Thánh hướng tới một ý thức mới về sự hiện diện của mình trong thế giới hôm nay và sứ mạng của mình giữa các dân tộc và các quốc gia. Công đồng Vaticanô II đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ truyền giáo là thế nào: mở rộng các ranh giới của đức tin, và là nhiệm vụ của mọi người đã rửa tội và của mọi cộng đoàn Kitô, bởi vì "dân Thiên Chúa sống trong các cộng đoàn, đặc biệt trong các giáo phận và giáo xứ, và một cách nào đó trở nên hữu hình ở đó. Chính các cộng đoàn này có nhiệm vụ làm chứng về Đức Kitô trước các dân tộc" (Ad gentes, 37). Vì vậy mỗi cộng đoàn được chất vấn và được mời gọi lấy làm của mình sứ mạng đã được Chúa Giêsu uỷ thác cho các Tông đồ, là trở thành "những chứng nhân của Người tại Giêrusalem, trên khắp xứ Giuđêa và Samaria và tới tận cùng trái đất" (Cv 1,8). Đây là khía cạnh cơ bản của đời sống Kitô hữu: tất cả chúng ta được mời gọi cùng với anh chị em mình đi trên các nẻo đường của thế giới để rao giảng và làm chứng cho đức tin của chúng ta vào Đức Kitô và trở nên những sứ giả Tin Mừng của Người (số 2).
Nhờ lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là quan thầy các xứ truyền giáo, nhất là của Mẹ Maria Ngôi Sao truyền giáo, cầu thay nguyện giúp chúng ta chu toàn sứ mạng của người kitô hữu. Amen.
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã làm một điều quan trọng, đó là đào tạo những chứng nhân.
Hội Thánh tương lai phải được xây nền vững chắc trên những con người có kinh nghiệm cá nhân về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Chính vì thế Ngài đã hiện ra cho Simon, cho hai môn đệ về Emmau, cho các tông đồ. Ngài cho họ xem chân tay và Ngài đã ăn bánh để họ đừng nghi Ngài là ma. Hơn nữa Ngài còn soi sáng cho họ để họ hiểu những lời Kinh Thánh nói về Ngài. Các môn đệ đã là chứng nhân, đã tử đạo để làm chứng cho điều mình xác tín.
Mỗi năm Hội Thánh dành một ngày Chúa Nhật để nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận của mình, bổn phận truyền giáo cho thế giới. "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân"
Chúng ta phải tiếp tục sứ mạng của các tông đồ, vinh dự đứng vào hàng ngũ các chứng nhân.
Để truyền giáo, chúng ta phải quen thân với Chúa Giêsu, có kinh nghiệm gặp gỡ Ngài thật sâu lắng, sống cái chết của Ngài mỗi ngày và nếm được niềm vui phục sinh Ngài ban tặng.
Để truyền giáo cần có nhiều tình yêu: tình yêu đối với Chúa Giêsu và đối với con người. Chính vì mến yêu Ngài mà ta muốn Ngài được mọi người nhận biết. Chính vì mến yêu mọi người mà ta muốn chia sẻ hạnh phúc mình đang hưởng.
Thế giới hôm nay đầy lạc thú và hưởng thụ, nhưng vẫn là một thế giới buồn. Buồn vì nạn phá thai, ly dị, tự tử; buồn vì hận thù, thất vọng và lo âu. Nhiều bạn trẻ tìm quên trong vui chơi, nghiện ngập, vì không thấy cuộc sống có ý nghĩa. Như thế truyền giáo là loan báo tin vui cho một thế giới buồn.
Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ giới trẻ: "Hội Thánh ủy thác cho giới trẻ nhiệm vụ hô to lên cho thế giới biết niềm vui vì gặp được Đức Kitô... Hãy đi rao giảng Tin Mừng giải thoát. Hãy là những điều ấy với tâm hồn hân hoan." Chúng ta không thể là những chứng nhân buồn. Chính cuộc sống của ta phải đầy ắp niềm vui, sự lạc quan và sự sống của Chúa Phục Sinh. Chỉ như thế chúng ta mời hy vọng đáp ứng những đòi hỏi gay gắt của thế giới đang bước vào đệ tam thiên niên kỷ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn nói về Chúa cho một người bạn không? Bạn có thấy mình cần học giáo lý và cầu nguyện để có thể truyền giáo tốt hơn không?
Hơn 90% người Việt Nam chưa tin Chúa. Theo ý bạn, chúng ta có truyền giáo đủ chưa? Phải sửa đổi gì để việc truyền giáo có hiệu quả hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, Cha muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha. Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người chưa nhận biết Đức Giêsu, họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, niềm vui và bình an của mình cho tha nhân, và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng. Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên, giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài, qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con. Chúng con cũng cầu nguyện cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo. Xin Cha cho những cố gắng của chúng con sinh nhiều hoa trái. Amen. .
CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO Năm C
Ông Bà Anh Chị Em thân mến.
Truyền Giáo là bản chất của Hội Thánh và là bổn phận của mỗi Ki-tô-hữu. Trong tâm tình khiêm tốn và nhiệt thành chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:
Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho mọi người trong Hội Thánh, luôn hăng hái giới thiệu Thiên Chúa tình yêu cho anh chị em mình bằng đời sống đạo, là biết yêu mến mọi người hơn nữa trong đời sống thường ngày. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Chính anh em là chứng nhân về những điều này. "Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống." Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh, luôn biết gắn kết với Chúa, có ơn Chúa, để trở nên những chứng nhân nhiệt thành. Chúng ta cùng cầu xin Chúa
Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông.Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh, ngoan ngoãn theo sự hướng dẫn đầy tình thương của Chúa, để có khả năng giới thiệu Chúa cho anh chị em mình. Chúng ta cùng cầu xin Chúa
Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho mọi người trong giáo xứ chúng ta, luôn biết chúc tụng và cầu nguyện cùng Chúa trong mọi hoàn cảnh, để được sự bình an và ơn cứu độ. Chúng ta cùng cầu xin Chúa
Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse, cùng các thánh xin Chúa thương chúc lành để mỗi người chúng con luôn thiết tha gắn kết với Chúa qua cầu nguyện và học hỏi giáo lý, để có thể giới thiệu và làm chứng về tình thương của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con.
CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN
Lc 18,1-8
1 Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. 2 Người nói: "Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. 3 Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: 'Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.' 4 Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: 'Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, 5 nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.'" 6 Rồi Chúa nói: "Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! 7 Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? 8 Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?"
ĐẢO (Cầu, Cúng, Chúc, Mong)
ĐẢO là cầu cúng, chúc mong.
Sống lâu chỉ bởi thần thương tặng truyền.
Chiết Tự ĐẢO
ĐẢO (cầu, cúng, chúc, mong) được ghép bởi hai chữ THỊ (thần đất), THỌ (sống lâu). Được hiểu là cầu khấn những điều vượt ngoài khả năng của con người như sống lâu (Ngũ Phúc: Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh) là phải đến với thần linh. Cầu khấn thì khác với xin xỏ, nhờ vả người đời giúp đỡ.
Phân Tích Từ CẦU
Từ chiết tự Hán Văn dưới ánh sáng Tin Mừng (đối chiếu từ ngữ *) chúng ta có được phân tích từ CẦU của tiếng Việt như sau:
C: Cầu nguyện: Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. (Lc 18,1)
A: An tâm: Rồi Chúa nói: "Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? (Lc 18,6-7)
U: Ủ ấp: Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: 'Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.' (Lc 18,3)
Lời cầu khấn thật sự phải là lời của trái tim hướng tới lòng thương xót của thần thánh. Phải kiên nhẫn (ủ ấp) và tin (an tâm) là sẽ được nhận lời. Chính Chúa Giêsu đã hứa: Thầy bảo thật anh em, nếu anh em tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm được điều Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: "Dời chỗ đi, nhào xuống biển!", thì sự việc sẽ xảy ra như thế. (Mt 21,21) Phải chăng, nhân danh cầu nguyện nhưng con người chưa gặp chính Chúa. Xin nhưng không tin rằng Chúa sẽ thương ban. Cầu nguyện mà như chuyện mặc cả, trao đổi; thiếu khiêm tốn và kiên trì.
Xin Chúa chúc lành cho mỗi chúng ta, luôn biết khiêm tốn và kiên nhẫn đến với Chúa trong cầu nguyện, để đón nhận được tình thương hải hà của Chúa giàu lòng thương xót.
Ước chi được như vậy.
Lm. JB. Trần Đinh Tử.
CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN
Ông Bà Anh Chị Em thân mến.
CHÚA NHẬT 28 TN
Đoạn Tin Mừng vừa nghe kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và mười người phong cùi. Họ đã giữ lề luật của dân Chúa, nên đã không tiến lại gần Chúa Giêsu mà chỉ dám đứng ở đằng xa lên tiếng xin Người thương xót. Chúa Giêsu đã đáp lại lời van xin của họ, và dạy họ tới gặp các tư tế. Người đã dạy họ làm theo điều luật dạy: Kẻ mắc bệnh phong cùi khi thấy mình được khỏi thì phải tới gặp các tư tế và sau khi các tư tế xem xét và tuyên bố kẻ ấy thực sự đã khỏi, thì kẻ được khỏi mới trở lại cuộc sống bình thường trong xã hội như mọi người lành mạnh khác.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là trong khi cả mười người cùng đi tới các vị tư tế và được khỏi, nhưng chỉ có một người trong số họ đã trở lại sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà ca ngợi Thiên Chúa và cảm tạ Ngài. Và trớ trêu thay, người độc nhất có cử chỉ đứng đắn này lại là một người Samaria, một người lai căng và tạp giáo đáng ghét dưới mắt người Do Thái. Chín người kia có thể là đã mải mê đi làm theo điều luật dạy. Có thể họ đã nghĩ rằng họ được khỏi là nhờ lề luật, nhờ việc họ làm theo lề luật, và do đó đã quên hay không nhận ra nguyên nhân đích thực đã làm cho họ khỏi bệnh. Trong khi đó thì người Samaria, có lẽ ít câu nệ đối với những chi tiết của lề luật hơn, không quá đề cao vai trò của lề luật, nên đã có thể nhận ra mình được khỏi bệnh là do đâu. Anh ta đã nhận ra Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh và anh trở lại để cám ơn người đặt mình trong mối quan hệ cứu và được cứu với Chúa Giêsu. Và do đó, anh ta tự trở thành người được cứu chữa thực sự, người được hưởng ơn cứu chuộc cứu chuộc của Chúa. Chín người phong cùi kia mới chỉ được khỏi bệnh, nhưng người phong cùi thứ mười và cùng là người Samaria mới là người được cứu chữa thực sự. Chín người phong cùi kia đã dừng lại ở lề luật, chỉ có người phong cùi thứ mười mới đi đến lòng tin và tình thương.
Đây không phải là lần độc nhất chúng ta được chứng kiến cái thực tế lạ lùng này: Người bị coi là ở ngoài hoá ra lại là ở trong. Người ở xa mà thực sự lại là gần. Hơn một lần Chúa Giêsu đã quả quyết người ngoại đạo như viên sĩ quan Rôma hay người đàn bà Canaan, có lòng tin mạnh mẽ hơn những người Do Thái. Người được kể làm ví dụ về việc thực thi lòng bác ái yêu thương là một người Samaria, chứ không phải là thầy tư tế, trợ tế hay một người Do Thái nào đó. Như thế, sống đạo bao gồm việc tuân giữ những giới luật của Chúa và Hội Thánh, tuy nhiên chúng ta cần phải nhận ra điều này, đó là không phải việc tuân giữ những giới luật và việc cử hành các nghi lễ đã cứu chữa chúng ta mà chính là Đức Kitô.
Thực vậy lòng đạo đích thực không phải là việc sốt sắng với lề luật, với nghi thức nhưng chính là phải đặt mình trong mối quan hệ với Đức Kitô, một mối quan hệ đầy tin tưởng và đầy thương yêu.
Người phong cùi trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu là kẻ bất hạnh, không phải chỉ mang một nỗi đau nơi thân xác mà còn mang cả một nỗi đau trong tâm hồn.
Thực vậy, sau khi mắc phải chứng bệnh nan y này, thì lập tức, họ bị khai trừ khỏi xã hội. Đi đâu cũng phải ra dấu để mọi người xa tránh. Đây không phải chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm ngăn chặn sự lây lan, mà hơn thế nữa trong bầu khí tôn giáo, người ta có thói quen coi bệnh này như là một hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên những kẻ tội lỗi. Nếu không phải do chính tội của bệnh nhân, thì cũng do tội của cha mẹ họ. Vì thế người bệnh bị xã hội coi là kẻ tội lỗi.
Chúa Giêsu thì khác, Ngài không thể không xót thương họ, nhất là khi họ đã lên tiếng van xin. Và tất cả 10 người phong cùi đều được khỏi. Chúa Giêsu bảo họ tới trình diện với hàng tư tế để được chứng thực là mình đã khỏi và nhờ đó mà trở về với xã hội loài người. Đây là lần thứ nhất họ được chữa lành.
Nếu phép lạ của Chúa Giêsu làm chỉ là việc chữa lành chứng bệnh hiểm nghèo này thì có thể kết thúc ở đây. Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ muốn chữa lành về phần xác, mà hơn thế nữa, còn muốn chữa lành về phần hồn. Vì thế mà câu chuyện được tiếp nối: Sau khi thấy mình được khỏi, thì một người đã quay trở lại tìm Chúa Giêsu để tạ ơn Ngài. Và đây cũng chính là một dịp để Chúa Giêsu tỏ lộ cho chúng ta thấy Ngài không phải chỉ là một thầy thuốc bình thường như mọi thầy thuốc khác, mà hơn thế nữa, Ngài còn là Đấng Cứu Thế, Đấng tha thứ và xoá bỏ mọi tội lỗi, bắc lại nhịp cầu cảm thông giữa trời và đất, đưa con người vào trong liên hệ thương yêu với Thiên Chúa. Chính vì thế mà Ngài đã nói với anh ta: Đức tin của con đã cứu chữa con. Người phong cùi thứ mười này không phải chỉ được Chúa chữa lành về phần xác mà hơn thế nữa còn được Chúa chữa lành về phần hồn và đó là lần thứ hai anh được chữa lành.
Thế nhưng điều làm cho chúng ta sửng sốt đó là người phong cùi được chữa lành và quay trở lại với Chúa Giêsu lại là người xứ Samaria. Dân Samaria vốn bị người Do Thái liệt vào hàng ngoại đạo, không xứng đáng với ơn huệ cua Thiên Chúa. Sự kiện này buộc chúng ta phải suy nghĩ: Phải chăng kẻ bị coi là ngoại đạo này lại nhận biết tình thương và ơn sủng của Chúa, trong khi đó những người vốn tự hào là có đạo, đạo dòng hay đạo gốc, lại tỏ ra vô ơn và bạc bẽo. Và phải chăng đó cũng chính là thái độ của chúng ta, những người có đạo, đối với Chúa và đối với những người đã từng góp công xây dựng cuộc đời của chúng ta.
Trong cuốn "Nói với chính mình" Đức Cha Bùi Tuần có viết: Tôi rất thích chó vì chó biết ơn. Dầu chỉ nhận được một cục xương, chó cũng tỏ vẻ biết ơn. Chủ đi đâu về, chó cũng vẫy đuôi mừng rỡ. Trong khi đó, con người vô ơn lãi là chuyện bình thường.
Một sự kiện khác cũng khiến chúng ta phải ngạc nhiên không ít: một số người Việt Nam từ hải ngoại trở về thăm quê hương đã đưa ra nhận xét như sau: Dầu cố gắng che giấu đến đâu cái tông tích Việt kiều của mình, thì cái tông tích ấy vẫn cứ bị lộ ra. Và oái oăm thay, cái tông tích ấy được thể hiện không phải qua cách mua sắm tiêu xài hay qua cách phục sức, mà gắn liền với một chi tiết rất tầm thường. Người ta nhận ra họ bởi vì họ là những người luôn miệng nói lên hai tiếng "cám ơn". Nếu quả thực hai tiếng cám ơn đã trở thành quý hiếm trên môi miệng người Việt Nam hiện nay, thì điều này hẳn phải là một báo động đáng lo ngại. Đó có thể là dấu hiệu của sự khô cạn tình người trong xã hội chúng ta đang sống.
Thực vậy, khi ơn nghĩa đã bị chối bỏ, thì dĩ nhiên sự ràng buộc và tình liên đới cũng trở thành mong manh. Một khi tình người bị chối bỏ, thì tất nhiên niềm tin tôn giáo cũng sẽ chỉ là chuyện thừa thãi mà thôi.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa của lòng biết ơn trong cuộc sống con người. Trong số mười người được chữa lành, thì chỉ có một người quay lại ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài. Chúa Giêsu hẳn đã chua xót trước sự vô ơn của con người khi thốt lên: Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu sao không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại này mà thôi. Tỷ lệ quá thấp, chỉ có một phần mười. Và một phần mười ấy theo Chúa Giêsu nhận xét lại là thành phần ngoại giáo. Mặc dù là goại giáo theo nghĩa tôn giáo, nhưng lại rất có đạo theo nghĩa đạo làm người. Mà bởi đạo làm người cũng là thể hiện của đạo Chúa, cho nên người ngoại giáo Samaria này, theo cái nhìn của Chúa Giêsu, hẳn phải là người có đạo hơn chín người Do Thái kia, bởi vì người này đã thực thi cái nhân đức cao quý nhất của con người là lòng biết ơn.
Con người không thể là người một cách sung mãn mà không cần đến người khác. Nói lên hai tiếng cám ơn là nói lên tình liên đới thâm sâu giữa người với người. Tôi không thể là tôi nếu không có người khác. Tôi cần có người khác để sống hoàn thiện, để được hạnh phúc. Từ cha mẹ tôi, gia đình tôi, những người thân thích của tôi cho đến cả những kẻ thù của tôi...Tất cả đều đã đóng góp vào sự trưởng thành của tôi. Không ai nghèo đến độ không có gì để trao tặng. Cuộc đời là một chuỗi những lãnh nhận, từ sự sống cho đến những thành đạt. Không có gì chúng ta đang có mà không do lãnh nhận từ người khác. Do đó biết ơn là một đòi hỏi thiết yếu nhất của trái tim con người. Không có lời rủa sả nào thậm tệ bằng ba tiếng: Đồ vô ơn. Hơn nữa, lòng biết ơn còn là con đường dẫn chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn mọi ơn huệ.
Người Samaria được chữa lành, đã ngợi khen Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài. Như vậy, lòng biết ơn chính là nẻo đường dẫn anh đến gặp gỡ với Thiên Chúa. Sống cho ra người, sống cho có tình nghĩa, đó là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Vô thần, xét cho cùng, cũng chỉ là vô ơn, bởi vì kẻ chối bỏ Thiên Chúa thì dĩ nhiên cũng sẽ chối bỏ người đồng loại của mình.
Chuyện đời thường, muốn thăng quan tiến chức, chúng ta nghĩ đến việc “biết điều” nơi phong bì cửa sau. Tệ nạn này không khó bắt gặp trong xã hội. Khi mọi sự đã “mã đáo thành công” thì “cò” cũng được đền ơn cân xứng. Phủi tay, xem như ân oán sòng phẳng, mọi chuyện chẳng có gì xảy ra. Trớ trêu thay, nhiều Kitô hữu lại áp dụng lối suy nghĩ này với ơn lành của Thiên Chúa. Khi gặp cảnh gian nan bĩ cực, họ qui định cho Thiên Chúa thời gian và hành vi cụ thể, đòi buộc Thiên Chúa phải làm thế này, thế kia trong lúc này, lúc nọ. Ngược lại, họ luôn hứa sẽ “trả công” Thiên Chúa cách cân xứng bằng cặp đèn cầy, mấy chiếc ghế đá, vài bao xi-măng… Ở đây, tôi không vội lên án hay dè bỉu thái độ này. Chúng ta cùng suy niệm Tin Mừng Luca chương 17 được đọc trong Chúa nhật 28 Thường Niên C để cùng rút ra những bài học quí giá trong cung cách xin ơn và biết ơn Chúa.
Đức Giêsu đang lên Giêrusalem. Theo Tin Mừng Luca, “lên Giêrusalem” nghĩa là đi vào con đường cứu độ, con đường của khổ giá. Theo thói thường, khi lâm nạn, chúng ta không mảy may để ý đến người khác, thân mình lo chưa xong thì làm sao mà lo chuyện bao đồng? Gặp một người trong tình trạng “lá lành đùm lá rách”, chúng ta dễ dàng bĩu môi: “Khôn nhà, dại chợ. Ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng. Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng”. Phải chăng, Tin Mừng hôm nay giới thiệu một gương mặt của Chúa Giêsu “lắm chuyện”? Khác với thói đời, mặc dù đang bước trên hành trình thương khó, Đức Giêsu không ích kỷ. Ngài nán lại chữa lành mười người phong hủi. Không phải Ngài nhiều chuyện, Tin Mừng chỉ rõ: họ đón chờ Ngài và van xin (x.Lc 17,12-13). Đúng người, đúng việc, Đức Giêsu không để nỗi lo lắng, bi thương mình đang mang chi phối lòng xót thương. Ngài vẫn giữ được sự tỉnh táo, sáng suốt, giàu tình thương và đã chữa lành. Không phải vô tình mà Thánh sử Luca nhiều lần nhắc đến động thái “lên Giêrusalem”. Lên Giêrusalem nghĩa là qui chiếu về mối dây cứu độ, mối dây hiệp thông. Khi phạm tội nguyên tổ, loài người cắt đứt mối liên hệ với Thiên Chúa, với tha nhân, với muôn vật muôn loài. Giờ đây, Tin Mừng cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến qua lòng xót thương, đỉnh điểm là biến cố Vượt Qua ở Giêrusalem nối kết từng chi tiết một: con người lại được chia sẻ vinh quang với Thiên Chúa. Trong trường hợp gặp gỡ mười người phong: sự đổ vỡ trong tương quan giữa người Do Thái và Samari, sự khinh miệt của người lành với người bệnh phong, đặc biệt như nguyên tổ là sự trốn tránh của người tội lỗi với Thiên Chúa, mọi vết nứt, đứt gãy được trám lại thật khít cách hoàn hảo qua biến cố chữa lành của Đức Giêsu. Đức Giêsu là Thiên Chúa, sẵn sàng đối thoại với người tội lỗi và dùng quyền năng chữa trị cả tinh thần, thể xác và linh hồn những người phong hủi. Ngài cũng là người Do Thái tiếp xúc với người Samari, hành động này vượt qua mọi rào cản ngăn trở giữa hai dân tộc tồn tại cả ngàn năm lịch sử. Ngài không mắc bệnh phong, qua việc tiếp xúc với bệnh nhân phong đã đập tan thành kiến ô uế tệ hại. Chỉ một lần gặp gỡ, mọi mối hiệp thông lại gắn kết. Còn chần chờ gì nữa, Kitô hữu cũng phải vượt qua hàng rào thành kiến để mở rộng vòng tay bác ái của Thiên Chúa.
Cả mười người cùng đợi chờ, đón đường và van xin Đức Giêsu. Khi rơi vào cùng một nhịp đập của sự khinh chê, cách ly, tất cả họ như thể trở nên gắn kết thành một. Sức mạnh của thành kiến xã hội đã đẩy tất cả họ vào con đường cùng, nhưng cũng chính sức mạnh ấy làm cho họ nhận ra tính thống nhất của sự đoàn kết của xã hội người phong. Điều này giúp chúng ta học được bài học của sự liên kết. Quả thực, dù đau khổ, bi ai cách mấy, nếu chúng ta cùng hợp sức như nhóm người này để đợi chờ, đón đường và van xin, thể nào Thiên Chúa cũng dùng ngón tay Người mà chạm đến chúng ta. Điểm khởi đầu này chẳng hề phân biệt giai cấp, tầng lớp, thể chế xã hội hay tôn giáo. Chắc chắn, mười bệnh nhân cùng mong chờ một điềm lạ vĩ đại nơi những lời lẽ vĩ đại xuất phát từ một người vĩ đại: “Thầy Giêsu” (17,13). Phải thực sự gọi là trớt quớt: Đức Giêsu xuất hiện không hào quang, không mây, không chớp, lời lẽ chữa lành không dài dòng, văn hoa, màu mè. Chỉ một lời, một lời thôi: trình diện tư tế. Nản lòng lắm chứ! Theo Torah (Lề Luật Do Thái) chỉ khi nào lành sạch hoàn toàn, nghĩa là không còn chút nào bệnh tật, khi đó bản thân bệnh nhân mới được trình diện tư tế về hiện trạng lành mạnh của mình. Sau đó tế lễ lên Thiên Chúa như một bằng chứng thanh sạch và tỏ lòng biết ơn. Đằng này, thân mười như một: lở loét, ô uế, mà Đức Giêsu lại bảo họ trình diện tư tế. Lố bịch! Thiết nghĩ, Đức Giêsu đang dồn những người này vào con đường chết, vào thế bí, thế hiểm. Ai ngờ, đây lại là đường hy vọng, đường thoát hiểm, con đường sống. “Chơi với Chúa” đòi hỏi phải chấp nhận đánh-cuộc cuộc-đời mình. Ngày nay, Chúa không dùng việc hiện ra như một hành vi thường xuyên mách bảo phải làm thế này, thế kia. Những gì cần nói, Ngài đã mạc khải tất cả nơi Thánh Kinh. Khi trình diện tư tế, mười bệnh nhân đã thể hiện niềm tin mãnh liệt vào Lời Chúa. Nếu chúng ta cũng học hỏi, cũng tin vào Lời Chúa, Thánh Kinh và thực hành niềm tin ấy thì chính chúng ta cũng cảm nếm được sự bình an đích thực như thể một phép lạ của Thiên Chúa. “Hãy nếm thử và nghiệm xem” (Tv 33).
Suy niệm đoạn Lời Chúa này không thể bỏ qua chi tiết một phần mười. Thánh sử Luca viết rất rõ: “đang khi đi thì họ được sạch” (17,14b). Phải chú ý rằng: họ được lành trước khi gặp tư tế. Có hai điểm cần quan tâm: thứ nhất không phải vì trình diện mà tư tế chữa lành họ; thứ hai họ vừa sạch phong hủi, lúc ấy vẫn chưa gặp tư tế, nghĩa là theo Luật tình trạng của họ mới sạch chứ chưa lành lặn hoàn toàn. Chín người kia phải thực hiện từng con chữ được ghi chép trong Luật. Cả chín người như mong mỏi gặp cho kỳ được tư tế để nhận được xác quyết của tư tế là họ lành sạch trăm phần trăm thì mới nghĩ đến việc biết ơn. Riêng người Samari, người ngoại giáo, anh ta không ràng buộc mình nơi con chữ của Lề Luật. Trước sau gì, anh ta cũng gặp tư tế như Lời Đức Giêsu đã truyền, nhưng ngay lúc này, anh phải vội vã quay lại để gặp người chữa lành cho anh. Anh sợ rằng: Người sẽ đi mất, Người đem ánh sáng cho cuộc đời anh, Người tái sinh anh trong trần đời này sẽ không còn đứng lại đó để anh kịp nói lên lòng tri ân. Hành động vội vã quay lại này không mang hình thức của lòng biết ơn đơn thuần nhưng là lòng biết ơn tận thâm tâm. Anh khao khát, nao nức gặp Người để tri ân. Đến với Chúa với lòng ước ao, khao khát Chúa, chính là hành vi tri ân hoàn hảo: “Lễ toàn thiêu và lễ xóa tội, Chúa không đòi. Con liền thưa: Này con xin đến” (Tv 39,7-8).
Thay lời kết, tôi muốn nhìn lại ba bài học quí giá sau khi suy niệm đoạn Tin Mừng này. Trước tiên, tôi được mời gọi đón nhận sự khác biệt của người khác, không co tròn trong vỏ ốc tự tôn, phải mạnh dạn phá vỡ thành kiến để Thiên Chúa dễ dàng dùng tôi như “khí cụ bình an của Ngài” (Kinh Hòa Bình – Thánh Phanxicô Assisi). Thứ đến, nơi nghịch cảnh cuộc đời, Thiên Chúa như đang chơi trò đánh đố niềm tin của con người. Tôi được tiếp thêm sức mạnh nơi đời sống cộng đoàn Kitô hữu, qua kinh nguyện, sự chia sẻ, cảm thông để vững tin rằng: Chúa không bỏ rơi tôi. Nếu tôi mạnh dạn trở thành khí cụ bình an của Chúa cho tha nhân, thì chắc chắn: Chúa cũng sẽ gửi một khí cụ bình an khác đến với tôi. Cuối cùng, như người Samari, một hình ảnh tuyệt vời của lòng khao khát tri ân, chúng ta cùng hiệp thông xin Chúa đong đầy lòng khao khát tạ ơn Chúa nơi mỗi người chúng ta. Amen!
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trong một chuyến bay từ Rôma về Nữu Ước, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen chăm chú nhìn cô tiếp viên hàng không đang đi lại phục vụ quí khách. Thấy cử chỉ lạ của Đức Tổng, cô tiếp viên mạnh dạn đến gần và hỏi:
- Thưa Đức Cha, có chuyện gì mà Đức Cha lại nhìn con như thế?
Vị Tổng Giám Mục nhoẻn miệng cười đáp:
- Vì đôi mắt của con rất đẹp!
- Vậy con phải làm gì để cám ơn Chúa đây?
- Con ạ! Chúa đã lấy tất cả sắc đẹp của từng người phong trong trại cùi Di Linh mà đem tặng cho con. Vậy con hãy đến đó chăm sóc cho họ mà đền đáp ơn Chúa.
Quả thật, chỉ ít lâu sau người ta đã thấy người phụ nữ xinh đẹp này ngày đêm tận tụy băng bó những vết thương lở loét cho các bệnh nhân phong, tại trại cùi Di Linh dưới lớp áo dòng nữ tu.
Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và phải hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh xa.
Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay kể lại chỉ một lời Chúa Giêsu phán ra thì vết thương của thể xác và nỗi đau trong tâm hồn bao năm đè nặng bỗng tan biến hết. Căn bệnh quái ác mà họ cứ tưởng phải gánh chịu suốt cả cuộc đời, nỗi ô nhục mà họ cứ tưởng sẽ vĩnh viễn theo họ sang bên kia thế giới, thì nay đã được hoàn toàn tẩy xóa. Chỉ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa mà họ như đã chết nay được hồi sinh, niềm vui rộn rã như vỡ òa trong tim.
Trớ trêu thay trong mười người được hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người Samari ngoại đạo. Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.
Chúa Giêsu phải thốt lên lời quở trách: “Không phải cả mười người được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” “Sở dĩ Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho anh ơn phần xác, thì Người lại ban thêm cho anh ơn phần hồn là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh. Người nói: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.
Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng cám ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân! Thú vật còn biết vẫy đuôi cám ơn khi ném cho nó cục xương, còn người vô ơn khi nhận được ân huệ chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.
Một đứa trẻ mới bập bẹ tập nói trong một gia đình có giáo dục, thì tiếng “cám ơn” luôn nằm sẵn trên bờ môi. Một người có nhân cách thực sự là một người có lòng biết ơn. Một người luôn thể hiện lòng biết ơn mới đích thực là con người. Lòng biết ơn là nét cao đẹp nhất của con người. Biết ơn là nhận ra thân phận bất toàn của mình. Biết ơn là ý thức về tình liên đới với người khác. Biết ơn là thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng. Vì thế, lòng biết ơn chính là bông hoa rực rỡ, điểm tô cho cuộc sống con người. Một tiếng nói “cám ơn” với tất cả chân thành, một cữ chỉ biết ơn sâu xa sẽ làm cho chúng ta nên người hơn, và thể hiện niềm tin sâu sắc hơn.
Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một “bài ca tạ ơn”. Người tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô sống lại, trước khi làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều, trước khi lập Phép Thánh Thể. Người không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Kể từ đó, mỗi thánh lễ mà Giáo Hội cử hành được gọi là thánh lễ tạ ơn.
Thánh Phaolô luôn dâng lời tạ ơn lên Chúa: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô”. Ngài cám ơn tất cả những ai giúp ngài trong công việc mục vụ: “Quà anh em tặng cho tôi đó, chúng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận”. Như vậy, câu ngạn ngữ Anh nói rất chí lý: “Cho người có lòng biết ơn chính là cho vay”.
Lạy Chúa, suốt cuộc đời chúng con ngụp lặn trong đại dương ân huệ của Chúa, suốt đời chúng con được tắm mát trong dòng suối ân tình của anh em.
Xin cho chúng con luôn biết sống có tình nghĩa, luôn thể hiện lòng biết ơn, luôn quí trọng những hồng ân mà Chúa đã thương ban, và những gì mà anh em đã làm cho đời chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc hơn.
Ca dao Việt Nam có câu:
“Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng
Thế nên,
“Ai mà phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”
Dầu biết rằng cám ơn là việc nên làm nhưng sao ta vẫn ngại ngùng nói lời cám ơn. Nhất là những người thân trong gia đình, tuy gần nhau nhưng lại rất xa – xa đến nỗi khó mà nói được hai tiếng cám ơn. Vợ chồng ít dám cám ơn nhau. Con cái phớt lờ hai tiếng cám ơn cha mẹ. Cha mẹ thị uy lại càng ít cám ơn con cái . . . Ra ngoài xã hội người ta cũng có muôn ngàn lý do để khước từ hai tiếng cám ơn.
Trên một chuyến xe Buýt có một em bé đang ngồi ở hàng ghế đầu thì thấy một ông lão bước lên xe, đứa bé liền đứng dậy nhường chỗ cho ông lão. Ông lão lẳng lặng ngồi vào ghế em bé. Thình lình em bé quay lại hỏi ông lão: Thưa ông, ông vừa nói gì ạ? Ông lão trợn mắt trả lời: Không, tôi đâu có nói gì đâu! Đứa bé lễ phép nói: Vậy mà cháu tưởng ông nói “cám ơn” chứ!
Thật đắng lòng khi những người lớn lại ít làm gương cho trẻ nhỏ về hai tiếng cám ơn. Thật đáng buồn khi nhìn thấy biết bao kẻ “ăn xong chùi mép” vô tư, không chút ngượng ngùng vì “ăn quả quên người trồng cây”. Họ chỉ là loại “qua cầu rút ván”, vong ân! Nếu xã hội toàn những con người bạc nghĩa vô ơn thì thật buồn cho xã hội con người. Nếu hai chữ cám ơn ít có trên đời thì cuộc đời sẽ chẳng còn những nghĩa cử cao đẹp của lòng biết ơn, của tính vị tha.
Có thể nói một trong những tiếng được kể là đẹp nhất trong kho tàng ngôn ngữ con người, từ đông sang tây, từ bắc tới nam, đó là hai tiếng “cám ơn”. Hai tiếng thật giản đơn, nhưng lại biểu lộ được nhân cách của con người. Con người biết người biết ta. Con người biết ôn cố tri tân. Đó là con người đáng trân trọng biết bao!
Trong tương quan với Chúa, con người chỉ là tạo vật mọn hèn. Có ân huệ nào không đến từ Thiên Chúa? Con người đã được Thiên Chúa ban cho muôn vàn ơn huệ hồn xác. Nhưng có mấy ai biết khiêm tốn nhìn nhận ân ban của Thiên Chúa để dâng lời tạ ơn? Có mấy ai đã cảm nhận sự bất toàn của mình để nói lời tri ân về những gì mình đang có?
Thiên Chúa là Đấng tốt lành. Ngài luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho con người. Con người được tạo dựng để hưởng dùng mọi công trình Ngài tạo dựng. Có thể nói, Ngài tạo dựng muôn loài để cho con người. Dù rằng con người có là chi, thế mà Chúa vẫn yêu thương.
Điều mà Chúa cần nơi con người chính là sự khiêm hạ trước Đấng tạo thành. Sự khiêm hạ sẽ giúp con người không chỉ biết uốn mình mà còn uốn lòng tôn thờ trước Đấng Càn Khôn. Sự khiêm hạ là dấu chỉ cho thấy con người biết mình với những giới hạn, yếu đuối, mỏng dòn nhưng Chúa đã làm biết bao kỳ công nơi con người. Sự khiêm hạ giúp con người dễ dàng sấp mình thờ lạy và tôn vinh Thiên Chúa.
Đây cũng là điều mà người phong hủi trong đoạn tin mừng đã làm. Lòng biết ơn của anh hôm nay không dừng lại ở việc cám ơn mà điều quan yếu là anh quay đầu lại sấp mình thờ lạy và tôn vinh Chúa. Dù rằng chín người kia đã không quay lại, nhưng số đông không là tất cả. Lương tâm và lòng khiêm hạ đã mách bảo anh quay trở lại để cảm tạ tri ân người đã cứu giúp anh. Chín người kia họ có thể ngại ngùng khi phải cảm ơn, nhưng lòng khiêm hạ nơi anh là nhịp cầu để anh đến với Chúa trong niềm tri ân.
Hóa ra trong cuộc sống lời tri ân cần có sự khiêm hạ. Không có sự khiêm hạ con người sẽ không nhìn thấy sự trợ giúp của tha nhân cũng như của Thiên Chúa để biết sống trong tâm tình tạ ơn. Sự kiêu căng khiến con người chỉ nhìn thấy tài năng của mình, chỉ nhìn thấy công lao của mình mà quên rằng “mưu sự tại nhân – thành sự tại thiên”. Nhờ sự khiêm hạ sẽ đặt con người vào đúng vị trí của loài thọ tạo biết ơn Đấng tạo thành và của con người yếu đuối biết ơn đồng loại của mình.
Có một câu ca mà một thời thơ ấu của tôi vẫn thường nghe hát: “bàn tay ta làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm”. Các thày cô vẫn lấy đó làm ví dụ để nói lên sức mạnh của con người, nhưng thực tế đó chỉ là hoài bão vô vọng của con người. Con người qua mọi thời đại vẫn hoàn toàn bất lực nếu trời không cho “mưa thuận gió hòa”. Bàn tay con người cũng chỉ là “dã tràng xe cát biển đông” nếu không có sự quan phòng của Đấng tạo thành. Trận bão số 10 vừa qua đã càn quét miền Trung thật nặng nề. Dù đã có cả một hệ thống đê điều. Dù đã có cả một đội Phòng Chống Lụt bão, thể nhưng con người hoàn toàn bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên. Thế nên, dù người có niềm tin hay không đều phải khiêm tốn nhìn nhận lộc trời thật cần thiết cho con người. Lời cầu “lạy trời mưa xuống” vẫn là lời cầu chân thành của con người qua mọi thời đại. Và như vậy, lời tạ ơn vẫn là lời khiêm hạ đầy chân thành của con người dâng lên Đấng tạo thành.
Là người ky-tô chúng ta luôn nhận ra có một Thiên Chúa quyền năng quan phòng mọi sự, thế nên mọi sự đều là ân ban của Chúa, hãy biết tạ ơn Chúa. Hãy biết khiêm tốn nhìn nhận sự giới hạn của mình đề cám ơn về lòng tốt của Thiên Chúa vẫn dành cho chúng ta. Đôi khi chúng ta nói:
- Sức khỏe của chúng ta do chúng ta ăn kiêng mà có, thực ra nhiều người còn ăn kiêng hơn chúng ta.
- Trí tuệ do chúng ta học hành mà có, thực ra nhiều người đã học nhiều hơn chúng ta.
- Chức vụ chúng ta do tài năng chúng ta mà có, thực ra nhiều người có tài hơn chúng ta.
Và như vậy: mọi sự chúng ta có là ân ban của Chúa. Hãy biết tạ ơn và sấp mình thờ lạy tôn vinh Đấng tạo thành là Chúa của lòng trí chúng ta. Amen.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem để chịu khổ hình, hoàn thành việc cứu độ. Chính lúc đi ngang qua Samaria, nhất là qua việc cứu chữa mười bệnh nhân phong, Chúa cho thấy một vài đặc điểm của ơn cứu độ.
Ơn cứu độ là phổ quát.
Chúa muốn cứu độ hết mọi người không loại trừ ai. Nên Chúa đi qua Samaria. Samaria là vùng đất cấm kỵ đối với người Do Thái. Đó là vùng đất ngoại đạo. Đó là vùng đất ô uế. Người Do Thái và người Samaria không giao thiệp với nhau. Nhưng Chúa đã vượt qua ranh giới cấm kỵ đó. Chúa muốn đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Tại Samaria Chúa còn gặp gỡ mười người phong cùi. Lại một cấm kỵ nữa. Người phong cùi vốn bị coi là hạng người tội lỗi, ô uế. Ai gặp họ đều trở nên ô uế. Họ bị loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Tại Samaria, những người phong cùi là những người ở tầng lớp cuối cùng của xã hội. Chúa đem ơn cứu độ cho mọi người, kể cả những người bị khinh miệt nhất, bị quên lãng nhất, bị hất hủi nhất. Ơn cứu độ Chúa ban cho tất cả mọi người. Trước mặt Chúa mọi người đều bình đẳng.
Ơn cứu độ là nhưng không.
Không ai dám nghĩ đến việc mời Chúa xuống trần gian. Không ai có công trạng gì khiến Chúa phải xuống trần gian để tưởng thưởng hay để đền đáp. Chúa xuống trần gian hoàn toàn do lòng nhân từ yêu thương của Chúa. Cũng thế, người Samaria hoàn toàn bất ngờ khi Chúa đến miền đất của họ. Những người phong cùi lại càng không bao giờ dám mơ tưởng tới. Bản thân họ đã bị lên án, bị loại trừ rồi. Ngay việc gặp một người bình thường đã không được phép, huống chi là gặp gỡ Chúa. Nhưng Chúa đã đến gặp gỡ họ, ban ơn cứu chữa họ. Hoàn toàn nhưng không. Họ chẳng có công gì. Họ chẳng có quyền đòi hỏi gì. Họ chỉ có nỗi đau khổ tột cùng. Chính nỗi đau khổ đó đã khơi dậy lòng yêu thương của Chúa. Vì Chúa là tình yêu thương.
Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm tin.
Tuy ơn cứu độ được ban rộng rãi và nhưng không, nhưng để đón nhận đòi phải có niềm tin. Những người phong cùi hôm nay đã bày tỏ niềm tin qua hai thái độ. Thái độ thứ nhất là đồng thanh lớn tiếng kêu cầu danh Chúa Giêsu: “Lạy Thày Giêsu, xin cứu chúng tôi”. Danh Thánh Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Từ cùng tận nỗi đau khổ, những người phong cùi đã kêu van bằng tất cả tấm lòng tha thiết và với niềm tin vững chắc. Chỉ có Chúa mới thương xót họ. Chỉ có Chúa mới đủ quyền năng cứu chữa họ. Thái độ thứ hai là đi trình diện với thày tư tế. Chúa không chữa họ ngay nhưng bảo họ đi trình diện với thày tư tế. Dù chưa được khỏi, nhưng họ vẫn tin tưởng lên đường. Đang khi đi đường thì họ được khỏi. Đức tin đã chữa họ.
Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm vui.
Đây là niềm vui trong mối tương giao giữa Thiên Chúa với con người. Cốt lõi của ơn cứu độ là thiết lập mối tương giao, cho con người được trở nên con cái Thiên Chúa, đồng hưởng hạnh phúc với Chúa. Đó là cội rễ của niềm vui, niềm hạnh phúc. Chín người bệnh không trở lại chỉ có niềm vui được khỏi bệnh, nhưng không có niềm vui trong mối tương giao với Thiên Chúa. Họ có đức tin cầu xin nhưng thiếu đức tin gặp gỡ với Thiên Chúa. Niềm vui được khỏi bệnh rồi cũng sẽ nhạt phai. Chỉ có một người trở lại tạ ơn. Anh trở lại vì mối tương giao. Anh nhận biết nguồn gốc niềm vui của mình. Anh sụp lạy Chúa vì biết nguồn gốc hiện hữu của mình. Anh đã tìm thấy nguồn cội ý nghĩa đời mình. Niềm vui của anh sẽ còn mãi mãi. Đời anh sẽ là một đời tạ ơn không ngừng.
Lạy Chúa, xin cho con biết tìm đến gặp gỡ Chúa để tạ ơn Chúa. Chính niềm vui tạ ơn này đem đến cho con hạnh phúc suốt đời con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Vì sao Chúa ban ơn cứu độ cho ta và ta phải đón nhận với thái độ thế nào?
2) Đức tin cầu xin và đức tin gặp gỡ Chúa khác nhau thế nào? Bạn đã tiến đến đâu trong đời sống đức tin?
3) Có những miền đất, những con người nào mà bạn coi là cấm kỵ khiến bạn chưa dám tiếp cận không? Với gương Chúa Giêsu hôm nay, bạn sẽ làm gì?
4) Biết ơn rất cần trong đời sống tự nhiên. Bạn có biết ơn trong đời sống siêu nhiên không?
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Để được khỏi bệnh ô uế, mười người phong cùi muốn đến với Chúa Giêsu, nhưng căn bệnh này không cho phép họ tới gần, nên tất cả đồng thanh kêu lên: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi!” Hỏi họ mong đợi điều gì? Thưa họ nuôi niềm hy vọng sẽ được chữa lành. Dù biết rằng chỉ mình Thiên Chúa mới có thể chữa lành bệnh phong cùi. Nhưng Vị Thầy Nazareth đã chẳng cho con gái bà góa thành Naim sống lại đó sao (Lc 7, 11-17)?
Đức Giêsu không đến gần để chạm vào họ, như Ngài vẫn làm khi chữa bệnh; Ngài cũng không phán lời thể hiện quyền năng trên căn bệnh quái ác này. Ngài ra lệnh tẩy sạch bệnh phong cách đơn giản.
Khi bắt họ phải đi trình diện các tư tế ở Đền thờ lúc họ chưa được lành sạch là Chúa Giêsu thử thách niềm tin của họ! Họ bị thử thách hơn ông Naaman thời Êlisê, ông phải tắm bẩy lần ở sông Giođan. Mười người phong cùi có đức tin thật gương mẫu, không thấy họ nói gì: không phản đối Chúa, họ lên Giêrusalem để trình diện các thầy tư tế như lời Ngài truyền.
Vâng lời Đức Giêsu, họ lên đường và đang đi thì họ được điều họ xin. Tuy nhiên, chỉ có người Samaritanô quay trở lại với Đức Giêsu “lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa”. Sự chữa lành chín người bệnh kia đã không thay đổi được nhận thức của họ về Thiên Chúa hay Đức Giêsu, dĩ nhiên tất cả đều lành sạch, nhưng chỉ có người Samaritanô mới nghe được Đức Giêsu nói, “lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”.
Những người kia không thể giải thích nổi dấu chỉ chữa lành họ là lời mời gọi trả lại Đức Giêsu là Đấng có quyền trên sự dữ không chỉ thể xác mà cả linh hồn họ. Họ không biết được rằng việc chữa bệnh thể xác là lời mời gọi Thiên Chúa gửi đến cho họ, không còn ở xa, nhưng tiến lại gần Đức Giêsu để nhận lãnh nhiều hơn như: tình yêu và ơn cứu độ chỉ mình Ngài có thể ban tặng cho chúng ta. Đây là “đức tin cứu độ”.
Cả mười người phong cùi được sạch, nhưng chỉ có một người đi đến cùng việc chữa trị căn bệnh của anh, để được cứu. Người ta có thể nói rằng chín trong số mười người phong cùi cần một người cứu hộ, chỉ có người thứ mười nhận ra Đức Giêsu là vị cứu tinh. Các nhân viên cứu hộ là những bác sĩ, y tá và các dịch vụ khẩn cấp xe cứu thương. Vị cứu tinh chỉ có một là: Đức Kitô của Thiên Chúa.
Chúng ta không biến Đức Giêsu ra “người cấp cứu” như chín người phong cùi trong Tin Mừng hay ông Naaman người Syria, lấy làm khó chịu khi theo quy định của Êlisa đi tắm ở sông Jordan một điều vô thưởng vô phạt?
Có người cầu nguyện: “Lạy Chúa, con trải qua một kỳ thi; cha con đang ốm bệnh; con phải đạt được bằng lái xe... Con sẽ thắp một ngọn nến”. Chắc chắn, thái độ này không có gì sai trái: Chính Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy cầu nguyện luôn; cái đáng lo ngại nhất, là con số đông những “người tin” vào lúc nào đó trở về với Chúa: khi họ cần một “người cứu hộ”. Phần còn lại, họ sẽ đi qua rất nhanh và quên ngay Chúa...
Trái lại, người Samaritanô, anh cảm thấy rất rõ cách thức chữa bệnh của Đức Giêsu mà anh là một người được hưởng: anh trở lại với Đức Giêsu, sấp mình dưới chân và “tạ ơn Người”.
Anh không trở lại để thanh toán một món nợ: cũng không hành động như Naaman người Syria xin Êlisê nhận lấy phần phúc. Ơn nhưng không của Thiên Chúa được ban cho viên sĩ quan ngoại giáo, kẻ thù của Israel, mời gọi chúng ta khám phá ra đơn giản chỉ là tình yêu Thiên Chúa dành cho dân ngoại. Người Samaritanô, một thành viên của một dân tộc được coi là dị giáo đối với người Do Thái, hiểu rằng sự chữa lành anh là một ân sủng của Thiên Chúa; hay vẫn nói là những người biết ơn, biết phục vụ, món quà của tình yêu. Khi anh trở lại bày tỏ lòng biết ơn của mình, tình yêu của mình với Đức Giêsu. Chính sự gắn bó cá nhân khiến anh trở thành môn đệ Ngài.
Người ta kể rằng Abraham Lincoln đã dành một ngày đi đến nơi bán người nô lệ. Thấy một phụ nữ da đen trẻ tuổi, rất đẹp, đang được bán. Lincoln dạm mua. Giá tăng một cách chóng mặt, cuối cùng Lincoln chiến thắng. Người phụ nữ trẻ đã được trao cho ông và cô cùng ông rời khỏi chợ. Cô khinh bỉ người thắng cuộc và tự nhủ: “Bây giờ bắt đầu việc lạm dụng và tôi phải đau khổ”. Lincoln ngạc nhiên nói: “Thưa cô, cô được tự do”. “Tự do ư?” Cô ấy hỏi, “Tự do cái gì? Để tôi muốn nói gì thì nói sao?” Lincoln trả lời “vâng thưa cô”. Cô hỏi tiếp: “Tự do để trở nên cái mà tôi muốn sao?” một lần nữa Lincoln trả lời “vâng đúng vậy”. “Vậy thì” người phụ nữ nói trong nước mắt “nếu như tôi muốn đi với ông”.
Tin tưởng vào Chúa Giêsu là để nhận ra Ngài là Thiên Chúa; trở nên môn đệ của Ngài, có nghĩa là chúng ta đang ngạc nhiên về ơn cứu độ nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta, chúng ta không thể sống không có Chúa được; mỗi ngày chúng ta cảm thấy cần đào sâu hơn mối tương quan với Chúa. Nếu mỗi Chúa nhật chúng ta cùng nhau qui tụ, lắng nghe Lời Chúa và rước Mình Máu cực thánh Chúa, không phải để được chữa lành khỏi bệnh phong tội lỗi sao?
Trong bài giảng tại Vienne, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI qui chiếu vào các vị tử đạo của Abitene, bị bắt trong khi cử hành Thánh lễ ngày Chúa nhật. Các thẩm phán hỏi lý do tại sao họ đã vi phạm cấm hy sinh đời họ, các Kitô hữu đã trả lời: “Nếu không có món quà của Chúa, chúng tôi không thể sống được”. Đức Thánh Cha nhận xét: “Đối với các Kitô hữu, cử hành Thánh Lễ Chúa nhật là một điều cần thiết nội tâm. Không có ai nâng đỡ đời sống của chúng ta, cuộc sống tự nó là trống rỗng. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cần phải liên hệ với Chúa Phục Sinh, Người nâng đỡ chúng ta sau khi chết. Chúng ta cần gặp gỡ và qui tụ nhau lại, cần có một không gian tự do, giúp chúng ta nhìn xa hơn sự nhộn nhịp của cuộc sống hàng ngày hướng đến tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, mà chúng ta đến và bước đi”.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rằng ơn cứu độ ban xuống ở cuối chặng đường khi chúng ta bắt đầu bước đi, hãy ý thực về sự chữa lành do Đức Kitô thực hiện trong đời sống chúng ta, chúng ta trở lại để tạ ơn Ngài.
Cử hành “Thánh Thể” đúng hơn là tạ ơn, Chúa đã chứng tỏ sự hiện diện của Ngài bên cạnh chúng ta. Để chia sẻ trong Bánh và Rượu đã được truyền phép, sự sống của chính Đức Giêsu, Đấng làm cho chúng ta tham dự vào tương quan tình yêu hiệp nhất giữa Chúa Cha và Thánh Thần. Amen.
Vào ngày 07/9/2004, hai người phụ nữ Ý tên Toretta và Pari đã bị một nhóm người vũ trang bắt cóc khi họ đang làm công tác từ thiện tại Irắc. Hai người phụ nữ này đều thuộc gia đình Công Giáo rất sùng đạo. Cả nước Ý đã lo lắng cho số phận của 2 con tin. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đưa ra lời thỉnh cầu với nhóm người bắt cóc xin hãy vì lòng nhân đạo mà thả 2 người phụ nữ ra. Vơí mọi cố gắng của chính phủ Ý trong việc đối thoại và thương lượng với nhóm người bắt cóc, cuối cùng 2 người phụ nữ đã được thả tự do vào ngày 28/9/2004, sau 3 tuần bị giam giữ.
Vào ngày 05/10/2004 vừa qua, cô Toretta và Pari đã cùng gia đình đến Vatican xin triều yết Đức Thánh Cha. Họ quỳ gối trước mặt ngài để cám ơn ngài đã cầu nguyện và lên tiếng can thiệp để họ được trả tự do. Trước tin vui này, Đức Giáo Hoàng đã cùng với gia đình 2 người phụ nữ dâng lời cảm tạ Thiên Chúa.
Hai người phụ nữ đã cám ơn Đức Giáo Hoàng và tạ ơn Thiên Chúa vì những ân huệ đã lãnh nhận. Đó cũng là thái độ của mọi người trước những hồng ân cao cả của Thiên Chúa. Nhưng đáng tiếc, nhiều người đã quên nói lời cám ơn trước những ơn lành mình nhận được.
Bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành mười người phong cùi, nhưng chỉ có một người trở lại để tạ ơn Chúa. Và thật trớ trêu, đó lại là một người xứ Samaria, một người dưới mắt người Do thái là một kẻ ngoại giáo! Đó là một điều đáng buồn, đến nỗi Chúa Giêsu phải thốt lên: “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch cả sao? còn chín người kia đâu?”. Có lẽ đó cũng là lời chất vấn dành cho những ai không nhận biết ơn Thiên Chúa để cảm tạ Ngài. Hơn ai hết, chính Chúa Giêsu đã nên mẫu mực cho chúng ta về lòng biết ơn Thiên Chúa và cả cuộc đời của Ngài luôn vang lên lời tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Cuộc đời Chúa Giêsu là bài ca tạ ơn.
Chúa Giêsu thường tìm đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha. Nhưng khi biểu lộ tâm tình tạ ơn thì Ngài lại thực hiện công khai trước mặt mọi người. Chúa muốn dạy mọi người bài học về lòng biết ơn đối với Thiên Chúa.
Trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn rồi phân phát cho mọi người (Ga 6, 11). Trong bữa Tiệc Ly, khi lập bí tích Thánh Thể, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ (Lc 22, 19). Đứng trước nấm mồ Lazarô, trước khi làm cho anh ta sống lại, Chúa Giêsu đã dâng lời cảm tạ Thiên Chúa (Ga 11, 41).
Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một lễ tạ ơn liên lỉ. Ngài đã hy sinh mạng sống làm hy tế dâng lên Đức Chúa Cha. Vì thế, ngày hôm nay, khi dâng lễ tạ ơn mỗi ngày, chúng ta cử hành mầu nhiệm cuộc đời Chúa, chúng ta sống lại tâm tình tạ ơn của Chúa, là tâm tình của Người Con dâng lên Chúa Cha.
Cuộc đời của Chúa là bài ca tạ ơn luôn vang lên những giai điệu vui tươi trong những giây phút hân hoan và trong cả những giờ khắc bi thảm. Bài ca tạ ơn đó đã ngân lên từ môi miệng của Mẹ Maria (Magnificat), ông Zacaria (Benedictus) và vẫn tiếp tục ngân vang trong tâm hồn những người tín hữu hôm nay.
Lời cám ơn, bông hoa đẹp của cuộc sống.
Ngạn ngữ Pháp nói: “Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim”. Đúng vậy, lời tri ân cảm tạ là lời nói của con tim. Lòng biết ơn là nghĩa cử của tâm hồn. Chỉ có những trái tim gỗ đá mới không nhận biết ân huệ được trao tặng. Vì vậy, lòng biết ơn là bông hoa đẹp tô điểm cho cuộc đời. Chính những lời cám ơn sẽ làm cho cuộc sống tăng thêm hương vị ngọt ngào và làm cho cuộc đời này thêm ý nghĩa vì mọi người biết liên đới với nhau hơn.
Ngạn ngữ Anh nói: “Cho người có lòng biết ơn là cho vay”. Quả thật, cuộc sống hiện tại của mọi người sẽ đẹp biết bao khi mọi người biết chia sẻ tình thương cho nhau. Mỗi cử chỉ yêu thương sẽ được đánh dấu bằng lời “cám ơn”, sẽ làm giàu thêm tình người. Mọi người sẽ sống trong tình huynh đệ với những “món nợ tình thương” trao trả cho nhau.
Lời tạ ơn Thiên Chúa của chúng ta còn là những bông hoa đẹp đẽ nhất của tấm lòng mà chúng ta dâng cho Chúa mỗi ngày. Những bông hoa ấy trang điểm cho tâm hồn chúng ta thêm xinh đẹp nhờ những ân sủng Thiên Chúa tặng ban. Vì “thật ra, Chúa không cần chúng ta ca tụng, nhưng được tạ ơn Chúa lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng ta chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng ta ơn cứu độ muôn đời” (Kinh Tiền Tụng Chung, IV). Đúng vậy, những lời tạ ơn của chúng ta như làn hương tỏa bay lên cao và kéo thêm nhiều cơn mưa hồng phúc xuống cuộc đời chúng ta, vì thế, khi người Samaria quay trở lại tạ ơn Chúa, Chúa nói: “Ngươi hãy ra về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”. Người Samaria không những được ơn lành bệnh mà còn được ơn cứu rỗi nữa. Cũng thế, sau khi được tiên tri Êlisê chữa khỏi bệnh cùi, tướng Naaman người xứ Syria đã trở lại để tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Từ đó, ông nhận được niềm tin vào Thiên Chúa (bài đọc 1, trích sách Các Vua Quyển thứ hai).
Một ngày kia, có hai thầy trò đi dạo trên con đường miền quê. Đang đi, họ chợt nhìn thấy một đôi giày cũ kỹ để bên vệ đường. Đó là đôi giày của người nông dân nghèo khó đang làm ruộng bên cạnh. Cậu học trò tinh nghịch định giấu đôi giày đi để trêu chọc người nông dân, nhưng ông thầy đã ngăn cản cậu: con đừng tìm niềm vui qua việc trêu chọc một con người nghèo khổ như thế, nhưng hãy tìm niềm vui khác to lớn hơn: con hãy bỏ vào mỗi chiếc giày một đồng tiền xem ông ta phản ứng ra sao?”. Sau khi bỏ tiền vào đôi giày, hai thầy trò trốn vào một bụi cây để xem người nông dân xử sự thế nào. Khi xỏ chân vào đôi giày để ra về, người nông dân phát hiện ra hai đồng tiền. Ông ta rất ngạc nhiên nhìn chung quanh, nhưng không thấy ai, ông ngắm nghía hai đồng tiền thật lâu rồi bỏ vào túi. Với sự xúc động tràn ngập trong lòng, người nông dân quỳ xuống, ngước mặt lên trời dâng lời tạ ơn Thiên Chúa đã dùng bàn tay vô hình nào đó đem đến cho ông một món quà thật đúng lúc trong hoàn cảnh khốn khó hiện tại của gia đình ông.
Chúng ta bắt chước người nông dân kia luôn cảm tạ Thiên Chúa trước những ân huệ Ngài ban. Chúng ta cũng hãy học lấy hành động yêu thương của hai thầy trò: hãy luôn biết cho đi bằng những “bàn tay vô hình” đầy ắp tình thương. Đó là cách tạ ơn Chúa tốt đẹp nhất của chúng ta.
Tin mừng hôm nay là trình thuật Đức Giêsu chữa lành cho mười người phong cùi. Sau đó, chỉ có một người "quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người...". Bối cảnh của câu chuyện hôm nay là Đức Giêsu cùng các môn đệ đang trên đường rao giảng Tin mừng từ thành này đến thành khác, từ làng này đến làng khác. Đức Giêsu đã gặp nhóm người phong cùi này tại một trong số những làng mà Người ghé qua. Đây là nhóm gồm có người Do Thái và người Samari (người Do Thái và người Samari vốn thù địch nhau). Bệnh tật và sự khốn khổ đã kéo họ lại gần nhau.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn nói đến dân Do Thái là dân đặc tuyển của Thiên Chúa. Họ đã nhận được nhiều ân huệ lớn lao như giao ước, luật Môsê, các ngôn sứ, đất hứa... Nhưng, như những người Do Thái bị phong cùi được Chúa chữa lành đã không biết trở lại cám ơn Đức Giêsu, dân Do Thái cũng không biết bày tỏ lòng biết ơn với Thiên Chúa vì những ân huệ lớn lao Người ban cho. Từ đó, những ân huệ lớn lao không còn chỉ dành riêng cho dân Do Thái, nhưng cho tất cả nhân loại. Đức Giêsu là ân huệ lớn lao nhất của Thiên Chúa gởi cho nhân loại.
Bệnh cùi không phải là một thứ bệnh như các thứ bệnh khác, nhưng nó là một hình phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi quá khứ, là dấu chỉ sự thẩm phán của Thiên Chúa. Người cùi là người không còn được coi là con Thiên Chúa, họ bị loại ra khỏi cộng đoàn những người tin. Như thế, bệnh cùi là biểu tượng của một căn bệnh thiêng liêng của nhân loại vắng bóng Thiên Chúa, vắng bóng sự hiệp thông với cộng đoàn những người tin. Khi chữa lành cho mười người phong cùi, Chúa Giêsu cho thấy Người muốn tái tạo lại tất cả chúng ta - ít nhiều là những người mắc bệnh phong cùi thiêng liêng - thành những con cái đích thực của Thiên Chúa, đồng thời có được sự hiệp thông huynh đệ với nhau và với cộng đoàn những người tin. Đức Giêsu luôn là Đấng cứu độ chúng ta, Người muốn chữa lành tất cả những căn bệnh thiêng liêng của chúng ta, đó là "tham, sân, si, mạn, nghi, thâm kiến", đó là mọi thứ tội lỗi đẩy Thiên Chúa ra khỏi trần gian này, đó là phá đổ sự hiệp thông huynh đệ...
Chắc hẳn Đức Giêsu không chờ những người được chữa lành trở lại cám ơn Người. Người ghi nhận chỉ có một người trở lại cám ơn. Một người duy nhất là tiêu biểu con số quá ít ỏi. Dường như chỉ thiểu số nhân loại thuộc về con số ít ỏi này?
Có lẽ mỗi người chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự vô ơn dưới hình thức này hay hình thức khác. Có thể là chúng ta đã làm điều tốt cho một ai đó, nhưng họ không biết cám ơn chúng ta. Có thể là chúng ta không biết cám ơn vì những ân huệ Thiên Chúa ban cho chúng ta. Được làm người, được làm con cái Thiên Chúa không phải là những ân huệ Thiên Chúa ban sao?
Đời sống kitô hữu là một bài ca chúc tụng ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa. Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta trở thành những thành viên trong cộng đoàn những người tin - Giáo hội. Khi lãnh nhận bí tích Thánh Thể - bí tích hy tế của Đức Giêsu và bí tích Tạ ơn Thiên Chúa, chúng ta được Thiên Chúa trao ban chính Đức Giêsu. Chúng ta cần trao ban lại - tạ ơn Thiên Chúa. Là kitô hữu tức là luôn tạ ơn, ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa. Là kitô hữu tức là được đón nhận một Tin mừng lớn lao - Đức Giêsu Kitô.
Phải chăng cuộc đời chúng ta là một bài ca ngợi khen chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa?
Lạy Chúa Giêsu, Ngài là Đấng khoan dung và nhân từ.
Chúng con xin tạ ơn Chúa vì những ơn lành Chúa ban.
Xin cho lòng con bình an đón nhận một ngày mới.
Xin giúp con luôn nương tựa vào ý Ngài.
Xin hướng dẫn con tìm ra ý Ngài trong mỗi giờ mỗi phút của ngày hôm nay.
Xin chúc lành cách đối nhân xử thế của con.
Xin dạy con đón nhận mọi cái bất ngờ trong ngày hôm nay với một tâm hồn thanh thản.
Xin cho con sức mạnh để chịu đựng những mệt nhọc của ngày hôm nay.
Xin biến đổi cuộc đời chúng con thành một bài thần ca ngợi khen, tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa. Amen.
(Trích dẫn từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Trong suốt nhiều thế kỷ, người Do thái đã phải còng lưng dưới sức nặng của lao động khổ sai bên Ai Cập. Dưới sự lãnh đạo của Môsê, Thiên Chúa đã giải phóng họ và đưa họ vào vùng đất tự do. Để đánh dấu cuộc giải phóng khỏi các thứ khổ sai đó, Thiên Chúa đã thiết lập một ngày trong tuần như ngày Hưu Lễ. Đó là lý do tại sao người Do thái đã trân trọng tuân giữ ngày Hưu lễ. Nó chính là biểu trưng của tự do, bởi vì thời nô lệ, bẩy ngày trên bẩy ngày, người Do thái không thể có được một ngày nghỉ ngơi. Như vậy, nghỉ ngơi là dấu chỉ của tự do, và đó là ý nghĩa nguyên thủy của ngày Hưu lễ.
Thế nhưng, dần dà qua dòng thời gian các nhà thần học Do thái đã thay đổi ý nghĩa ấy của ngày Hưu lễ: thay vì là biểu tượng của tự do, họ đã biến ngày Hưu lễ thành một gánh nặng đầy đọa và trói buộc con người; họ đã kéo dài ngày Hưu lễ thành một bản kê khai tỉ mỉ những gì không được phép làm trong ngày Hưu lễ và như vậy dấu chỉ của tự do giờ đây chỉ còn là một hình thức nô lệ mới đối với người Do thái: thay vì là dấu chỉ của tự do đưa con người vào gặp gỡ với Thiên Chúa, ngày Hưu lễ đã trở thành một gánh nặng chồng chất trên vai con người, nhất là làm cho con người xa cách Thiên Chúa.
Đó cũng là tình trạng của lề luật nói chung thời Chúa Giêsu. Luật lệ không còn là vì con người, nghĩa là giải phóng con người, mà trở thành gánh nặng đè bẹp con người và tách lìa con người khỏi Thiên Chúa; con người chú tâm thi hành lề luật hơn là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Thái độ của 9 người phong cùi người Do thái trong Tin Mừng hôm nay phản ánh tâm thức chung của người Do thái thời đó. Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong cùi, trong đó chỉ có một người Samari không phải tuân hành luật Do thái. Theo đúng đòi hỏi của lề luật, Chúa Giêsu đã yêu cầu 9 người Do thái đến trình diện các tư tế để được xác nhận là đã khỏi bệnh, riêng người Samari không phải tuân giữ điều đó, nhưng đây lại là người duy nhất trở lại cám ơn Chúa Giêsu và ngợi khen Thiên Chúa.
Câu truyện trên cho chúng ta thấy luật lệ đã cản trở con người đến gặp gỡ Chúa Giêsu và cảm tạ Thiên Chúa. Người Samari vì không bị chi phối bởi lề luật, nên đã được tự do để nói lên tình cảm chân thật của mình, người này gần với tôn giáo đích thực bởi vì ông có tự do hơn. Thiên Chúa thi ân một cách nhưng không thì con người cũng phải đáp trả một cách tự do. Một tương quan như thế không thể có được trong một xã hội lề luật, trong đó con người chỉ biết tính toán theo thứ công bình hoán đổi. Người Do thái vốn quen thuộc với tâm thức ấy, họ tính toán chi ly về công đức của mình, họ lượng giá phần thưởng dựa trên công nghiệp của mình. Chúa Giêsu đã đánh đổ một quan niệm như thế về tương quan giữa con người và Thiên Chúa: ơn cứu rỗi mà Ngài loan báo và thực hiện là ơn cứu rỗi nhưng không, đến độ con người chỉ được cứu độ nhờ lòng tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa, đến độ những kẻ tội lỗi là những người đầu tiên được vào Nước Chúa.
Ngày nay, có lẽ nhiều người chúng ta cũng giống như 9 người phong cùi Do thái trong Tin Mừng hôm nay. Họ đã bị lề luật giam hãm trong Đền thờ để không còn có thể nói lên lời tạ ơn đối với Đấng đã thi ân cho mình; họ xem lề luật trọng hơn điều thiết yếu của niềm tin là lòng biết ơn và niềm tín thác. Cũng như họ, có lẽ chúng ta đã tỏ ra trung thành một cách chi ly với luật Hội Thánh, nhưng nhiều lúc chúng ta vẫn còn tự hỏi: Tôi phải đọc bao nhiêu kinh? Tôi phải lần bao nhiêu chuỗi? Tôi phải ăn chay bao nhiêu lần? Tôi phải bố thí cho bao nhiêu người nghèo khó? Tính toán như thế là quên rằng Thiên Chúa như Chúa Giêsu mạc khải là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài ban ơn cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta chờ đợi và tính toán. Một Thiên Chúa như thế, con người không thể có một tâm tình nào xứng hợp hơn là lòng tri ân, niềm tín thác. Đó là sự thể hiện của một tâm hồn tự do đích thực, nhờ đó con người có thể vượt qua bốn bức tường nhà thờ để không ngừng gặp gỡ Chúa trong cuộc sống mỗi ngày.
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Có câu chuyện kể rằng, một hôm Chúa sai hai thiên thần xuống trần gian đi làm nhiệm vụ, đúng hẹn hai thiên thần trở về, một vị đeo cái giỏ nặng trĩu, thấy vị kia đeo cái giỏ nhẹ tênh, hầu như không có gì bèn nói: Chúa sai tôi xuống trần gian thâu tất cả những lời cầu xin, nhưng nhiều quá nên cái giỏ của tôi rất nặng. Còn ngài, ngài đã làm gì mà sao cái giỏ của ngài nhẹ quá vậy? Vị kia trả lời: Tôi xuống trần gian để thu tất cả những lời tạ ơn, nhưng chẳng có bao nhiêu.
Câu chuyện phần nào nói lên một thực tế của con người và giúp chúng ta hiểu được bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc, thì ra người ta hầu như biết cầu xin hơn là biết đón nhận và tạ ơn. Thánh Luca thuật lại sự kiện có mười người phong cùi đến gặp Chúa Giêsu và khẩn khoản cầu xin Chúa thương xót, Chúa đã chữa lành bệnh cho họ, nhưng chỉ có một người quay lại để tạ ơn Chúa. Người quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa lại là một người ngoại, vậy thì chẳng lẽ những người kia không được lành bệnh sao?
Đọc bài Tin Mừng này tôi nhớ lại một sự kiện tôi đã gặp mà tôi nhớ rất rõ, đó là trưa ngày mùng 3 tháng 11 năm 1995 tại một nhà thờ của Dòng Đaminh, có một phụ nữ ôm một bó hoa tươi đang phân vân đi đi lại lại trước các tượng thánh Đaminh, thánh Vinh sơn Liêm và thánh Martinô trong khuôn viên nhà thờ. Tôi tiến lại gần và hỏi hình như bà muốn đặt hoa trước vị thánh nào đó phải không? Bà thú nhận bà là người ngoại đạo, bà làm việc này theo yêu cầu của đứa con trai của bà. Nhưng thật đáng tiếc, bà không biết đâu là thánh Martinô, rồi bà tiếp tục tâm sự: gia đình bà đều ngoại giáo, cách đó nhiều năm đứa con trai của bà học lớp 9, theo các bạn bè Công giáo đến khấn xin thánh Martinô cho học hành tốt đẹp và tất cả chúng đã đạt được như ý. Kể từ đó, hàng năm vào ngày 3/11 lễ thánh Martinô nó vẫn mang bông đến tạ ơn thánh nhân, nhưng bởi vì năm nay nó đi xa, nó vẫn nhớ việc này và nhờ bà làm giúp cho nó.
Một người ngoại đạo họ không biết Chúa, không đón nhận Phép Rửa, không cùng tuyên xưng đức tin với chúng ta nhưng họ đã nhận ra nguồn hạnh phúc thật của sự sống. Họ ý thức rất rõ và xác tín những gì họ đã đón nhận. Họ hiểu ra rằng tất cả cuộc đời của họ đều là hồng ân. Họ chưa bao giờ tuyên xưng đức tin, nhưng họ đã luôn sống và thể hiện đức tin: “Lòng tin của ngươi đã cứu ngươi”. Có thể nói, người biết tạ ơn đó là người có thái độ biết cầu xin và biết đón nhận, hay là người có thái độ tạ ơn Thiên Chúa, đó là người có đức tin.
Mỗi người chúng ta khi cầu nguyện, chúng ta thường hay nhắm đến cầu xin và luôn luôn cầu xin cho chúng ta, cho nên chúng ta đã quên mất rằng, tạ ơn là một trong những yếu tố quan trọng trong đời sống cầu nguyện. Cùng với chúc tụng, sám hối, chúng ta cầu nguyện hình như là để cầu xin Thiên Chúa thực hiện theo ý của chúng ta hơn là để chúng ta nhận ra thánh ý Chúa và thực hành ý Ngài.
Chính thái độ đó mà chúng ta cứ quay quắt trong ý định riêng tư và dằn vặt trong tính toán nên không thể nào nhận ra được hồng ân cao cả đầy yêu thương của Thiên Chúa đang thực hiện trong cuộc đời của mình. Nếu chúng ta ý thức một chút, chúng ta sẽ nhận ra cuộc đời của chúng ta là cả một cuộc đời đầy những hồng ân. Vì vậy, chúng ta phải chúc tụng, tạ ơn cả cuộc đời và cả một cuộc đời của chúng ta phải là một cuộc đời tạ ơn liên lỉ.
Xin cho mỗi người chúng ta vững mạnh trong đức tin để nhận ra trên thế giới này Thiên Chúa vẫn đang sống, vẫn đang hành động, đang ở với chúng ta, để chúng ta chúc tụng và tạ ơn. Giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin và xin cho mỗi người chúng ta cũng sống trọn vẹn đức tin để chúng ta chúc tụng, tạ ơn Chúa.
Đọc Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, tôi cảm thấy thật buồn về thái độ vô ơn của chín người được ơn. Trong số mười người phong hủi được Chúa Giêsu chữa lành, chỉ có một người quay trở lại để tạ ơn. Mười người được ơn, chỉ có một người biết ơn. Tỷ lệ một phần mười. Một tỷ lệ quá thấp. Như vậy, kẻ vô ơn thì thật nhiều, còn người biết ơn có lẽ thật ít. Người biết ơn ấy lại là người ngoại đạo!
Chúa Giêsu hỏi người ngoại giáo: "Không phải tất cả mười người đều được lành sạch cả sao? còn chín người kia đâu? không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này?”. Chúa Giêsu buồn không phải vì bị phụ ơn mà vì trong số mười người chỉ có một người hiểu biết tình trạng thiêng liêng của mình trước mặt Thiên Chúa.
Trong cuốn sách "Nói với chính mình" Đức Cha Bùi Tuần có viết: Tôi rất thích chó vì chó biết ơn. Dầu chỉ nhận được một cục xương, chó cũng tỏ vẻ biết ơn. Chủ đi đâu về, chó cũng vẫy đuôi mừng rỡ. Trong khi đó, con người vô ơn lại là chuyện bình thường.
Chuyện phiếm 7 “Hai chữ cám ơn”, Gã Siêu xót xa: Một tác giả nào đó đã viết: Một sự kiện làm chúng ta phải ngạc nhiên không ít, đó là một số người Việt Nam từ nước ngoài trở về thăm quê hương đã đưa ra nhận xét như sau. Dầu có cố gắng che dấu đến đâu cái tông tích Việt kiều của mình, họ vẫn cứ bị lộ ra. Và oái oăm thay, cái tông tích ấy được thể hiện không phải qua cách mua sắm tiêu xài, hay là phục sức, mà gắn liền với một chi tiết rất tầm thường. Người ta nhận ra họ bởi vì họ là những người luôn miệng nói lên hai tiếng “cám ơn”. Nếu quả thực hai tiếng cám ơn đã trở thành quí hiếm trên môi miệng người Việt Nam hiện nay, thì phải chăng đó là một lời báo động đáng lo ngại. Đó có thể là dấu chỉ của sự khô cạn tình người trong xã hội Việt Nam chúng ta. Khi ơn nghĩa đã bị chối bỏ, thì dĩ nhiên sự ràng buộc về tình người cũng trở thành mong manh. Và khi tình người bị chối bỏ, thì nhiều lãnh vực khác cũng sẽ bị lung lay và sụp đổ.
Sở dĩ như vậy là vì những người Việt Nam sống ở nước ngoài tiếp xúc thường xuyên với người phương Tây, nên cũng đón nhận những nét đẹp văn hóa của họ. Những tiếng vốn được người phương Tây xử dụng nhiều nhất là “xin lỗi” và “cám ơn”. Dân Pháp thì luôn miệng nói “pardon” và “merci”. Còn dân Ăng lê thì động một tí là “sorry” và “thank you”. Thói quen tốt đẹp này có được là do sự giáo dục từ trong gia đình. Có người đã tổng kết được mười mấy chữ quan trọng trong việc giáo dục trẻ em ở phương Tây, đó là cám ơn, chào ông bà, xin lỗi, phiền ông bà, tạm biệt, xin mời…Trong đó đứng đầu là hai tiếng “cám ơn”. Như vậy, họ đã dạy cho con em biết cảm động, không được thờ ơ nhìn sự giúp đỡ và làm ơn của người khác.Từ đó, gã suy ra rằng, lòng biết ơn và tình yêu mến luôn đi song song và tỷ lệ thuận với nhau. Lòng biết ơn sẽ sinh ra tình yêu mến và tình yêu mến lại sinh ra lòng biết ơn.(x.dunglac.org).
Tác giả Nguyễn Văn Tuấn, trong bài “Văn hóa cám ơn” viết chua chát: Cám ơn và xin lỗi đôi khi trở thành một đề tài xã hội. Khoảng 2 năm trước đây, viết trên báo Tuổi Trẻ, một người Hàn Quốc đang làm việc tại Việt Nam “phàn nàn” rằng người Việt Nam ít nói xin lỗi. Tiếp theo đó là một thư khác của bạn đọc người Việt chỉ ra rằng chẳng những ít nói xin lỗi, mà người Việt còn ít nói cám ơn. Điều này có vẻ mâu thuẫn với truyền thống đạo lý của người Việt, vốn có truyền thống tôn sư trọng đạo, ghi ơn tiền nhân. Nhưng có lẽ trong cuộc sống bề bộn của thời thực dụng kinh tế, không ít người Việt, trong đó có cả những quan chức, quên nói lời cám ơn. Sự thiếu sót này có thể ảnh hưởng đến quốc thể và gây ấn tượng không đẹp ở người nước ngoài về người Việt. Câu chuyện mà tôi sắp kể sau đây còn cho thấy hình như trong một số quan chức thể hiện sự tri ân vẫn còn khá khó khăn. Anh là một kỹ sư người Đức, do cơ duyên nào đó, lấy vợ Việt Nam và quê vợ ở một làng nghèo thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Có lẽ để làm một nghĩa cử đẹp cho quê vợ, anh về Đức quyên tiền, và đem số tiền đó về quê vợ xây một bệnh xá cho người dân nghèo. Người dân trong làng ai cũng nhớ anh ta trực tiếp chỉ huy việc xây dựng, rất quan tâm đến chất lượng đến nổi cẩn thận gõ từng viên gạch để đánh giá xem thật hay dỏm. Kết quả là một bệnh xá khang trang và có chất lượng cao. Đến ngày khai mạc, các quan chức trong làng đua nhau cám ơn Đảng và Nhà nước, nhưng không có đến một lời cám ơn chàng rể người Đức dù anh có mặt trong buổi lễ khánh thành bệnh xá. (x.saigonecho.com).
Vô ơn chẳng làm cho người ban ơn thiệt thòi mà chỉ làm cho tâm hồn kẻ chịu ơn thêm chật hẹp. Đúng như John Hery Jowett đã viết: "Sống vô ơn là một cuộc đời trống vắng tình yêu và không cảm xúc. Có hy vọng mà không có tri ân là sự thiếu hụt của một nhận thức tinh tế. Lòng tin mà thiếu niềm tri ân là một lòng tin không có nghị lực. Tất cả những nhân đức bị tách biệt khỏi lòng biết ơn đều trở nên tàn tật khập khiễng trên con đường thiêng liêng".
Văn hóa cám ơn được thể hiện trong xã hội văn minh. Mọi người luôn nói cám ơn mỗi khi được người khác giúp đỡ, dù chỉ là nhỏ bé thôi. Hai tiếng cám ơn làm ấm lòng người nghe. Hai tiếng cám ơn làm tăng thêm giá trị của người nói. Người biết nói tiếng cám ơn được đánh giá là người văn hoá, văn minh.
Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Chúa đã ban cho anh ơn phần xác. Chúa lại ban thêm cho anh ơn phần hồn nữa: "Ðứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh". Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.
Sống trên đời này mọi người cần biết ơn nhau. Biết ơn là thái độ cần thiết cần phải có đối với người ban ơn. Trong cuộc sống, tiếng "cám ơn", "xin lỗi" luôn có sẵn trên môi miệng những người có giáo dục, lịch sự, lễ độ. Lòng biết ơn, tiếng cám ơn phát xuất từ tấm lòng chân thành luôn làm vui lòng mọi người. Chính lòng biết ơn Thiên Chúa, biết ơn cha mẹ là nền tảng cho mọi thứ biết ơn khác.
Có hai thứ chịu ơn: vật chất và tinh thần.
Vật chất thì có thể tính bằng con số, đo lường bằng mức độ như một cây vàng, một ngàn đồng, một sào đất... Tất cả những thứ ấy đều có thể trả được.
Chịu ơn về tinh thần thì khó định nghĩa rõ ràng để trả ơn. Khi một người thất vọng, chán chường, cô đơn, đau khổ, bệnh tật... nếu có được một chút lửa ấm tình thương nâng đỡ sẻ chia, giúp cho người đó ra khỏi đêm tối, tìm lại ánh sáng, niềm vui, bình an, hy vọng, thì lòng biết ơn đó là mãi mãi.Kẻ nghĩ rằng trả ơn là xong, không cần biết ơn nữa, đó là một tâm hồn nghèo nàn.
Thật là dễ nếu cảm ơn những điều tốt đẹp. Nhưng cuộc sống bao giờ cũng tạo cơ hội mới cho mọi người cảm ơn cả những thứ chưa hoàn hảo nữa. Suy nghĩ luôn có thể chuyển tiêu cực thành tích cực. Nếu bạn biết cách biết ơn những thứ rắc rối của bạn thì chúng có thể giúp ích nhiều cho bạn!
Bạn thân mến.
Hãy cảm ơn vì bạn chưa có tất cả những thứ bạn muốn. Vì nếu bạn có rồi thì bạn còn có gì để trông chờ và hy vọng nữa đâu.
Hãy cảm ơn vì còn nhiều điều bạn chưa biết. Vì nếu bạn biết hết rồi thì bạn chẳng còn gì để học hỏi nữa sao?
Hãy cảm ơn những lúc khó khăn. Vì nếu không có một lúc khó khăn thì liệu bạn có trưởng thành được không?
Hãy cảm ơn vì bạn còn có những nhược điểm. Vì nếu không còn nhược điểm gì thì bạn sẽ chẳng còn cơ hội để tiến bộ, để cải thiện bản thân.
Hãy cảm ơn những thử thách. Vì nếu không có thử thách nào thì liệu cái gì có thể xây dựng nên sức mạnh và cá tính của bạn?
Hãy cảm ơn những lỗi lầm bạn đã có. Vì nếu bạn không có lỗi lầm gì thì cái gì sẽ dạy cho bạn những bài học đáng giá như thế đây?
Hãy cảm ơn những khi bạn mệt mỏi. Vì nếu bạn không khi nào mệt mỏi tức là bạn không làm việc gì hay sao?
Suốt cuộc đời, bạn và tôi đều mang ơn rất nhiều. Cám ơn về tất cả, tri ân về tất cả. Bắt đầu mầm sống trong lòng mẹ, nơi ngôi nhà ấm cúng, thầm kín đầu tiên đó, tôi được mẹ lấy máu thịt nuôi dưỡng lớn dần từng ngày.Từ ngày đó tôi đã chịu ơn rồi. Tôi vào đời với tiếng khóc như biểu tượng sự yếu đuối và cần đến mọi người. Rồi tôi lớn lên nhờ dòng sữa mẹ, nhờ hơi ấm, nhờ những bàn tay nuôi nấng dẫn dắt. Công cha, nghĩa mẹ, thầy cô giáo dục. Vào đời, tôi cần tình yêu, cần tình bạn, cần thông cảm. Cuộc đời được dệt nên bằng những ơn nghĩa nối tiếp nhau. Sự sống là ân ban cao cả nhất, thiêng liêng nhất mà tôi được đón nhận từ Thiên Chúa. Ngài tạo thành tôi và còn ban Con Một của Ngài chịu chết thập giá để cứu chuộc và ban cho tôi Sự Sống Mới.
Nói đến trả ơn, chỉ có thể trả ơn người, chứ không bao giờ trả ơn Chúa được. Hôm nay tôi nghèo, có người giúp tôi. Thời gian sau, có thể khá hơn tôi có dịp trả ơn. Nhưng với Chúa thì bao giờ tôi cũng nghèo, cũng túng thiếu. Chúa chẳng cần gì để tôi có thể trả ơn, vì mọi sự đều đến từ Chúa. Tôi chỉ có thể biết ơn Ngài bằng thái độ yêu quý những gì Ngài ban tặng. Tặng vật lớn nhất là sự sống và lời mời gọi làm con của Ngài. Bởi đó phải yêu quý sự sống của mình, yêu bản thân mình, yêu con người và yêu cuộc đời. Ghét bỏ chính mình, không yêu người là sự vô ơn đối với người ban tặng. Mọi sự đều đến từ Thiên Chúa. Ngài sắp xếp hoà điệu để con người tham gia vào chương trình đón nhận ân sủng Ngài trao tặng. Những gì tôi đón nhận từ tha nhân cũng là ơn Chúa, nên lòng biết ơn đối với tha nhân cũng chính là lòng biết ơn đối với Chúa.
Mỗi sáng khi vừa thức dậy, tâm tình đầu tiên là tôi Tạ Ơn Chúa, dâng một ngày mới cho Chúa. Cùng cộng đoàn hiệp dâng Thánh Lễ chung lời Tạ Ơn Chúa, một ngày mới tràn đầy bình an và ơn thánh.
Tạ ơn để đón nhận thêm ơn lành cho cuộc sống, lời Kinh Tiền Tụng số IV trong Sách Lễ Rôma: "Thật ra, Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Chúa lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời".
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn sống tâm tình biết ơn, biết ơn Chúa, biết ơn người để cuộc đời chúng con là bài ca tri ân tình thương của Chúa. Amen.
Đảo lộn trật tự bình thường
Câu chuyện được thuật lại cách giản dị, tự nhiên, nhưng hết sức linh động. Tất cả dường như đều diễn ra bình thường, hợp lề luật. Những người mắc bệnh phong ở riêng một nơi: họ là những người ô uế, nên phải ở ngoài làng. Đức Giêsu cư xử đúng đắn như một người chữa bệnh. Người tôn trọng Lề Luật (x. Lv 13,46 ; 14,2-3) khi truyền cho những người bệnh đi trình diện các tư tế.
Điều bất ngờ là danh xưng mà các người phung hủi sử dụng để thưa với Đức Giêsu: "Lạy Thầy Giêsu." Đây là lần duy nhất Đức Giêsu được những người không phải môn đệ gọi là Thầy.
Điều bất ngờ hơn và là trọng tâm của tường thuật là: "Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari."
"Người Samari" đổng nghĩa với "người nước ngoài", "người ngoại đạo", tức là không thuộc dân Ít-ra-en, không được Thiên Chúa yêu thương cứu vớt.
Người ta có thể nghĩ rằng, đối với 9 người kia, câu chuyện diễn tiến theo Lề Luật: sau khi được các tư tế chứng nhận là đã khỏi bệnh, họ được tái gia nhập cộng đoàn.
Chỉ có một người làm đảo lộn trật tự bình thường. Có lẽ người Samari không hiểu lệnh truyền của Đức Giêsu. Hoặc anh ta đã quên. Hay đúng hơn, vì không phải là người Ít-ra-en, anh không để ý đến tầm quan trọng của Lề Luật. Anh đã trở lại gặp Đức Giêsu để tạ ơn.
Những người kia ở lại trong chế độ lề luật, họ đã không bước vào thế giới ân sủng, thế giới của việc tặng ban và tạ ơn. Như vậy, phải chăng người ở ngoài dân được tuyển chọn mới có thể hiểu điều này? Vậy mà, đối với một số người, việc thuộc về dân của lời hứa lại không tạo nên một thứ bảo đảm giả tạo đó sao? Họ coi đó như một quyền lợi hơn là một sự ban tặng.
"Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc lại những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử" (Gl 4,4-5). Đức Giêsu sẽ lên Giêrusalem và sẽ ra mắt các tư tế. Nhưng tại đó, Người sẽ phá tung trật tự của họ. Tại đó, Người sẽ mặc khải, sẽ tỏ bày tình thương do Chúa Cha ban tặng, tình thương làm cho sống. Và điều ấy, hôm nay, người Samari, đã loan báo.
Lời bộc bạch của người Samari
"Tôi bị bệnh phung hủi. Tôi rất mặc cảm, không những vì cái bệnh khốn khỗ nơi thân xác, mà còn về cả cái gốc gác lý lịch không được sạch trước mắt đạo Do-thái. Như thói quen thời ấy, những người phung hủi chúng tôi phải sống ở bên ngoài làng, không được giao tiếp với những người bên trong, vì chúng tôi là những người dơ bẩn, còn những người khác là người sạch.
"Tôi vẫn nghĩ rằng mình sẽ phải mang cái bệnh khốn khỗ đó cho đến chết, và mình sẽ sống cô đơn suốt đời, cô đơn cho đến chết. Chẳng có tài nào chữa được thứ bệnh quái ác này, và tôi sẽ cứ phải sống chui, sống nhủi. Chỉ có cái chết mới giải thoát được, còn bây giờ thì cứ sống mà như không phải là người.
"Khi nghe tin ông Giêsu của người Do-thái đi ngang qua, những người phung hủi chúng tôi đến xin ông cứu giúp, bởi vì chúng tôi đã được nghe nói về ông, và chúng tôi hy vọng ông sẽ chữa chúng tôi lành bệnh như ông đã làm cho nhiều người. Tuy thế, tôi vẫn sợ rằng mình không phải là người Do-thái nên ông sẽ loại tôi ra. Nhưng không, lời ông nói đã làm cho chúng tôi được sạch, những vết phung hủi biến đâu mất, và chúng tôi thấy mình lành lặn. Những người Do-thái, theo như lời ông Giêsu nói, đã đi trình diện các tư tế theo đúng Lề Luật của họ. Còn tôi, tôi là người Samari, tôi đâu có lề luật, mà các tư tế cũng đâu có chứng nhận cho tôi. Tôi biết trình diện với ai bây giờ? Ai chứng nhận cho tôi, tôi đâu có thuộc quyền ai?
"Bởi vậy, không có gì hay hơn là tôi trở lại với chính người đã cứu tôi, đã chữa tôi lành bệnh. Ông ấy không coi thường tôi, không xét đến lý lịch gốc gác của tôi, và tôi thấy mình hạnh phúc, hạnh phúc hơn cả những người Do-thái. Tôi đã trở lại với ông Giêsu, trở lại để cám ơn, vì ơn đó quá lớn, chẳng thể nào tin nỗi.
"Đúng thế, ân huệ đó quá lớn lao. Những mặc cảm, những bất hạnh của tôi đã được xoá bỏ. Từ nay tôi được vào một đời sống mới, tôi được công nhận là người như mọi người khác. Và vì thế, tôi đã trở lại với Đấng đã làm ơn cho tôi, trở lại để bày tỏ tấm lòng của tôi, và cũng để công bố cho mọi người biết, Đấng làm ơn cho tôi có tấm lòng yêu thương vô biên."
Người ấy, có phải là chúng ta?
Những người phung hủi ấy tượng trưng cho chúng ta. Khi mọi sự yên ỗn, sức khoẻ, công việc làm ăn đều tiến triển tốt đẹp, chúng ta nghĩ rằng chúng ta có quyền hưởng những thành quả ấy đúng như sự khôn khéo và hiểu biết của mình. Chỉ cần một chút thông minh, một chút mánh lới là chúng ta sẽ tránh được những điều tệ hại. Chúng ta chẳng cần phải cầu xin: "Xin dủ lòng thương chúng con." Chúng ta không cảm thấy mình bệnh hoạn, thiếu thốn, và khi ấy, Thiên Chúa không thể làm gì được.
Nhưng khi mắc phải bệnh phung hủi, khi tai hoạ ập xuống, khi xảy ra những nguy hiểm, những cám dỗ, những tật bệnh ... khi bất thình lình, cuộc đời chúng ta thay đỗi, lúc ấy, một cách tự nhiên, chúng ta chạy đến với Đấng có thể cứu thoát và thưa: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng con." Đó là tiếng kêu của ân sủng. Mặc dù có những lúc dường như Thiên Chúa không đáp lại, nhưng Người vẫn luôn nghe thấy. Không có tiếng kêu nào của con người bị bỏ quên, không có tiếng kêu nào của con người mà Thiên Chúa lại không nghe thấy. Người sẽ chữa lành, chữa lành toàn diện.
Như thế, chúng ta phải nhận thấy mình mắc bệnh và cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa. Và khi đã phó thác, đã đặt niềm tin tưởng nơi Người, chắc chắn Người sẽ nhận lời, sẽ chữa lành, dù chúng ta thế nào chăng nữa. Thiên Chúa không xét chúng ta là ai, chúng ta như thế nào, Người chỉ cần lòng tin của chúng ta.
Và cũng như người Samari, chúng ta sẽ phải trở lại để tạ ơn Thiên Chúa, để nhìn nhận Đấng đã làm ơn cho mình, không chỉ là biết nhận ân huệ, nhưng còn phải nhận ra Đấng đã thi ân. Chính điều đó làm cho chúng ta nhận được thêm những ân huệ khác.
Người Samari đã vượt ra khỏi giới hạn của Lề Luật để bước vào thế giới ân sủng, bởi vì anh có tấm lòng. Nhận thức rõ ân huệ mình đã lãnh nhận, anh đã cư xử như nhận thức đó thúc đẩy, không theo một quy tắc nào cả. Không phải ai cũng có được tấm lòng như thế: Trong mười người, chỉ có một người trở lại mà thôi. Chúng ta có phải là người ấy?
* * *
"Ngay khi đọc câu chuyện chín người được chữa lành và mất dạng trong Tin Mừng, tôi liền khám phá ra nơi họ khuôn mặt của các cộng đoàn chúng ta, vẫn thường có tính hay quên và vô ân. Tôi cũng nhận thấy nơi người Samari trở lại để tạ ơn Đức Giêsu hình ảnh dân mới của Thiên Chúa. Con người mới này, con người xa lạ với Tin Mừng, con người không có thái độ chán ngán trước Lời Chúa, đã được Tin Mừng biến đỗi và đã làm cho Đức Giêsu phải ngạc nhiên.
Này đây Lời đã chết nơi những con người được coi là đạo đức, nay đang tái sinh ở ngoài họ, nơi một con người xa lạ với mọi nghi lễ tôn giáo của họ. Này đây Tin Mừng đang trỗi vượt lên cách bất ngờ bên ngoài mọi truyền thống và thói quen.
Chỉ một mình người lạ này, người đã trở lại để tạ ơn Thiên Chúa, là tất cả niềm hy vọng của Ít-ra-en, là lời mời gọi nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Đức Ki-tô giữa trần gian. Đó chính là nét độc đáo của Tân Ước: Xưa kia, Cựu Ước kêu mời dân ngoại nhìn vào dân Ít-ra-en, còn giờ đây, Tân Ước kêu mời những người nhiệt thành hãy nhìn và lắng nghe sự thật đang được Đức Ki-tô bày tỏ giữa trần gian." (theo G. Casalis)
Những bài Thánh Kinh hôm nay ít nhiều đều đề cập tới một tâm tình tự nhiên của con người: lòng biết ơn. Tướng Naaman sau khi được khỏi bệnh đã quay trở lại gặp người của Thiên Chúa với một lễ vật tạ ơn. Người phong hủi Samaria thấy mình được khỏi bệnh liền quay trở lại tạ ơn Đức Giêsu. Những câu chuyện như thế không có gì đáng nói, vì là lẽ thường tình trong xã hội. Nhưng ở đây tâm tình biết ơn có một điểm nổi bật khiến cho Đức Giêsu phải ngạc nhiên và trân trọng: sự biết ơn phát xuất từ lòng tin và là lời diễn tả lòng tin.
Trong một chỗ khác trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã nói về Naaman "Cũng thế, trong thời tiên tri Êlisêô có nhiều người bị phong cùi trong Israel, nhưng không ai trong họ được chữa lành, chỉ có Naaman, người dân ngoại.", để ca ngợi lòng tin của viên sỹ quan A-ram này. Cũng như ở đây, Đức Giêsu không khỏi đau đớn khi lên tiếng hỏi "Không phải cả mười người đều được khỏi bệnh sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại quốc này?" Và Người dã đưa ra kết luận "Đứng dậy và đi! Lòng tin của con đã cứu con". Rõ ràng, lòng biết ơn là điều thường tình, nhưng biết ơn bởi lòng tin thì là một điều thật họa hiếm. Sự biết ơn trong cuộc sống xã hội thường chỉ phát xuất từ quyền lợi bản thân: muốn người làm ơn có một cái nhìn thiện cảm và vui lòng. Ngay cả trong tôn giáo, thường cũng chỉ gặp được những lời tạ ơn như thế.
Tiên tri Êlisêô, và cả Đức Giêsu nữa khi bắt người bệnh của mình phải đi tắm ở sông Giođan hay đi trình diện với các tư tề là để họ phải đặt mình trước ngưỡng cửa đức tin. Naaman, và người phong hủi thời Đức Giêsu qủa thực đã phải đấu tranh với bản thân mình để có sự vâng phục trong đức tin. Đức tin không cắt đứt người tin khỏi những tương quan trong cuộc sống, nhưng giúp con người biết nhìn mỗi tương quan ấy trong cái nhìn của Thiên Chúa. Naaman muốn dâng lễ vật cho Êlisêô, điều đó sẽ làm cho đức tin vừa chớm nở nơi Naaman bị tổn thương, nên người của Thiên Chúa đã trả lời "Trước mặt Đức Chúa hằng sống là Đấng tôi phục vụ, tôi thề sẽ không nhận gì cả". Naaman đã hiểu để tạ ơn ông phải làm cho chính trọn vẹn đời sống trở thành Lễ Tế cho Thiên Chúa. Người phong hủi Samaria cũng nhận được một lệnh truyền tương tự "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu anh." Lời tạ ơn phải là cả hành trình đời sống thường ngày trong lòng tin.
Chúng ta sẽ không hiểu đúng tâm tình tạ ơn theo đức tin, nếu không cùng thánh Phaolô chiêm ngưỡng Lễ Tạ Ơn của chính Đức Giêsu. Bằng một gợi nhớ thật vắn gọn, nhưng thánh Phaolô đã cho thấy Lời Tạ Ơn của Đức Giêsu xuất phát từ đâu, và đi về đâu "Con hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chỗi dậy từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đavít." Lời Tạ Ơn đi từ nhập thể, ngang qua sự chết và sống lại vinh hiển. Đó là sự VÂNG PHỤC ĐỨC TIN toàn hảo của Đức Giêsu đối với LÒNG TRUNG TÍN tuyệt đối của THIÊN CHÚA trong GIAO ƯỚC của Ngài "Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ lời hứa của mình." Lời tạ ơn như thế, đòi hỏi người tin "cùng chết với Người" "cùng kiên tâm chịu đựng với Người". Lễ Tạ Ơn bắt nguồn và hình thành trong chính cuộc sống.
Người Kitô hữu chúng ta ngày nay thường muốn đóng khung lễ tạ ơn của mình trong nhà thờ, nơi đền đài. ở đó họ đôi khi cũng rất quảng đại, nhưng cuộc sống của họ lại là nơi của những thần tượng khác. Thật đau lòng thay.
Cuộc sống hôm nay thật qúa nhiều khó khăn: nhiều gia đình phải bươn trải từng ngày cũng không đủ sống. Lại thêm bị ám ảnh chiến tranh, người ta bắt đầu có khuynh hướng thu gom và tích trữ, và dường như cố quên đi những mảnh đời đau khổ. Lời Tạ Ơn không còn là "cùng cam chịu chết, cùng cam chịu đựng". Đức Giêsu "hôm qua,hôm nay và mãi mãi" vẫn là "đồng hình đồng dạng" với những con người lam lũ đễ làm thốt lên trong lòng họ NIỀM TIN vào lòng Thương Xót của Thiên Chúa, và biến cuộc đời những con người cùng khổ thành Lời Tạ Ơn và Chúc Tụng, bằng sự hiến thân đến cùng cho họ. Lễ tạ ơn của chúng ta phải là "lễ tạ ơn" của những con người đang bị khủng bố, bị bom đạn dày xéo, bị lũ lụt cuốn trôi. Chính trong thời điểm khó khăn của chính mình, sự hiến tặng tình thương của mỗi người mới là của lễ mà Thiên Chúa chờ đợi.
Từ quan điểm ấy, một lần nữa tôi tha thiết mời gọi sự giúp đỡ đặc biệt cho anh em bị lũ lụt của chúng ta. Sự khó khăn của chúng ta không thể là lý do để chúng ta khép lại Tình Thương Trung Tín của Thiên Chúa.
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Sau một trận động đất dữ dội hoặc một vụ khủng bố tựa như đã xảy ra tại Trung Tâm Thương Mại NewYork tháng 11 năm 2001, một số người bị vùi dưới hàng khối bê tông và gạch đá, nhưng không bị chết ngay vì được nằm lọt vào một khoang trống. Trong khoảng không gian chật khít người, vừa tối tăm vừa ngột ngạt đó, họ dùng điện thoại di động gọi về gia đình, gọi cho nhân viên cứu hộ đến cứu giúp. Mạng sống của họ chỉ được tính từng giây!
Trong những giờ phút kinh hoàng như thế, người ta cảm nhận rằng được sống thêm mươi phút nữa, dù chỉ thêm mươi phút nữa thôi, cho đến khi toán cấp cứu đến kịp, là cả một hồng ân vô cùng lớn lao. Và đang lúc gần như bị chôn sống dưới cả một núi bê tông như thế, họ nghiệm thấy rằng được tự do hít thở như bao nhiêu người khác bên ngoài là một ân huệ vô cùng quý báu; được uống vài ngụm nước lúc nầy thì thật sung sướng không gì bằng...
Mươi phút sống... một chút không khí trong lành... mấy ngụm nước... là những gì mà những người lâm nạn hết lòng khao khát và ước mơ, nhưng những ước mơ giản dị đó đã không đến được với nhiều nạn nhân bị chôn vùi ở nhiều nơi vì tai nạn hầm mỏ, vì nạn khủng bố hay động đất... nhưng những ân huệ đó đang ở trong tầm tay chúng ta cách dồi dào và dư dật. Chúng ta có thừa những gì mà những người lâm nạn đang mơ ước. Thế mà chúng ta không xem đó là ân huệ, mà chỉ xem đó là chuyện thường tình.
Nước, không khí, ánh nắng mặt trời... chỉ là một vài trong vô vàn ân huệ Thiên Chúa rộng ban cho mọi người. Đếm sao cho xiết những ân huệ Chúa ban. Vậy mà số người nhận ra và tỏ lòng tri ân Thiên Chúa thì vô cùng khan hiếm.
Khi Chúa Giêsu đi qua biên giới Samaria thì gặp mười người phong cùi. Họ là những người mang số phận bi đát. Vì mắc bệnh truyền nhiễm đáng sợ, họ bị xã hội Do-thái thời bấy giờ xua ra khỏi gia đình, làng mạc, cách ly với tất cả mọi người. Những con người bất hạnh nầy tụ tập với nhau, sống trong các hang hốc ngoài đồi núi, áo quần tả tơi, đầu tóc bù xù và buộc phải để đầu trần, đi đâu phải lấy tay che miệng và hô lên báo hiệu cho người qua lại biết mà lánh xa. Vì thế, họ không được phép lại gần Chúa Giêsu để xin Ngài cứu chữa. Họ phải đứng đằng xa kêu lên: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi".
Theo luật quy định, nếu có người nào mắc bệnh phong có cơ duyên lành bệnh, thì phải đến trình diện với các tư tế, để khám xét lại. Nếu thực sự được lành bệnh thì họ mới được cho hoà nhập với cộng đồng. Chúa Giêsu bảo mười người phong đến trình diện với các tư tế là vì lý do đó. Họ đã đi trình diện, đã được chứng nhận là khỏi bệnh, nhưng chỉ có một người xứ Samari, người được xem là thuộc phường rối đạo, biết quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa và cảm tạ Chúa Giêsu. Còn chín người kia thì không. Chưa được ơn thì van vái cầu xin, được ơn rồi thì nín thinh như hến.
Chuyện kể rằng có hai thiên thần được Thiên Chúa sai xuống trần, một vị có nhiệm vụ thu gom những lời cầu khẩn van xin của con người; còn vị kia thì đi thu nhặt những lời tạ ơn người ta dâng lên Chúa. Chỉ vài giờ sau, vị thiên thần có nhiệm vụ thu gom lời cầu nguyện van xin của nhân loại vội vã trở về vì hai va-li lớn của ngài đầy cứng và nặng trịch vì những lời cầu khẩn, khiến ngài hầu như không cất cánh nổi để bay về. Chờ mãi không thấy thiên thần kia trở lại, Thiên Chúa lại sai một vị thiên thần khác xuống thế kiếm tìm, thì mới hay là thiên thần thứ hai đang rảo khắp phố phường, khắp hang cùng ngõ hẻm suốt cả tháng trời mà chẳng gom góp được bao nhiêu lời tạ ơn nên còn phải lặn lội đến những nơi xa xôi hiểm trở may ra có thể kiếm thêm được ít gì nữa chăng!
Dấu hiệu để nhận ra người có văn hoá là biết nói tiếng cám ơn. Trong xã hội văn minh, dường như hai tiếng cám ơn liên tục được phát ra làm ấm lòng người nghe và làm tăng thêm giá trị của người nói. Người biết nói tiếng cám ơn, khi được người khác làm ơn cho mình, cả trong những điều nhỏ nhặt, được đánh giá là người văn hoá, văn minh.
Ước gì trong tương quan với Chúa, mỗi người chúng ta cũng không thua kém những người khác trong xã hội thế trần, biết nhận ra hồng ân Thiên Chúa bao phủ đời mình và luôn dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì hồng ân Ngài tuôn ban trong suốt dòng lịch sử đời mình. Và lời tạ ơn đẹp nhất, xứng hợp nhất, là cùng với Chúa Giêsu dâng hy tế tạ ơn Thiên Chúa Cha qua mỗi thánh lễ hằng tuần.
Hôm nay, Đức Giêsu phác họa một câu chuyện để nói về sự cầu nguyện.
Đức Giêsu nói: "Trong thành kia có một quan toà". Một quan tòa phương Đông, một người chẳng kính sợ Thiên Chúa, chẳng sợ hãi ma quỷ và khinh khi mọi người. Một mình làm nhiệm vụ trong một thành phố nhỏ, không có sự kiểm tra của cấp trên, có thể kéo dài vụ kiện tùy thích.
Đối đầu với ông là một bà góa thân cô thế cô, biểu tượng của những người nghèo không nơi nhờ cậy, không có tiền của, bị những người giầu có thù địch tha hồ bóc lột... Một người đàn bà không có chỗ dựa về pháp lý, không có chồng để bênh vực... Bà góa này đã nhiều lần đến xin quan tòa xử kiện. Bà quá nghèo chẳng có gì để đút lót, nhưng bà có một khí giới, bà rất đanh đá, rất đáo để, rất kiên trì, rất cương quyết. Bà tin chắc, cứ kêu nài, cứ van xin, cứ quấy rầy, thế nào quan cũng phải xử. Quan tòa không sợ ai, nhưng phải sợ sự quấy rầy của bà.
Thế rồi, bà không để cho ông được yên lúc nào, không để ông rảnh rỗi ăn chơi, làm cho ông phải đau đầu nhức óc, khổ sở vì bà. Ông muốn khỏi khổ, phải xử cho xong. Xong ở chỗ cho bà phải thắng, kẻ thù phải thua. Bà không để cho kẻ thù ức hiếp. Đúng vậy, ông quan tòa dẫu chẳng kính sợ Thiên Chúa, cũng chẳng coi ai ra gì, phải thua người đàn bà góa này. Ông đã phải xử kiện cho bà. Chúng ta đừng ảo tưởng ông đã làm điều tốt, ông đã trả lại công bằng. Không, ông là một người ích kỷ và vô liêm sỉ. Đơn giản vì lợi ích của người khác trùng hợp với lợi ích riêng của ông. Ông ta luôn luôn hành động vì mình, xử kiện cho bà góa, đơn giản để bị khỏi quấy rầy.
Đây là dụ ngôn dùng sự tương phản, trong đó bài học được rút ra "trái ngược" với ví dụ được nêu. Một quan tòa bất chính, không có lương tâm phải nhượng bộ một bà góa nghèo hèn... Phương chi Thiên Chúa tốt lành vô cùng, là người Cha vốn nhạy cảm với những lời cầu nguyện của người nghèo, lại có thể từ chối lời cầu xin của con cái Người sao? Không: "Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ thấy, hãy gõ sẽ mở cho". Dù bây giờ Thiên Chúa có trì hoãn, nhưng phải kiên trì cầu nguyện liên lỉ, không thoái nhượng, không giảm sút, không buông thả, không chán nản. "Thiên Chúa, Người sẽ mau chóng bênh vực những kẻ người đã tuyển chọn... Người sẽ mau chóng thực thi công lý".
Khẳng định này có vẻ nghịch lý, ta chẳng thấy nhiều khi cầu nguyện, chẳng thấy gì, chỉ đụng chạm sự im lặng của Thiên Chúa. Bất công vẫn xảy ra, vẫn tiếp tục tồn tại trong thế giới. Cầu cho Nước Cha trị đến, xem ra nước Cha không bao giờ đến. Thực ra, ta luôn có xu hướng đòi Chúa phải thỏa mãn điều mình xin. Những lời cầu nguyện của chúng ta, giống một thứ đòi nợ và yêu cầu Thiên Chúa phải trả. Thiên Chúa như "máy phát quà tự động", bỏ vào khe một đồng tiền, kéo cái nút và cái máy đưa ra một cái bánh Sôcôla theo yêu cầu.
Khi chúng ta có cảm tưởng lời nguyện xin không được chấp nhận. Hãy nhớ Đức Giêsu, khi xin với Chúa Cha: "Xin Cha cất chén này khỏi Con..." Đức Giêsu được nhận lời cách khác, chén đau khổ không được cất đi, nhưng qua cái chết, Người đã đến niềm vui của Phục sinh.
Tuy nhiên, nên biết điều này: Không phải lúc nào chúng ta cũng xin Thiên Chúa điều tốt nhất. Chúng ta không thể hiểu thấu tư tưởng của Chúa. Sẽ ra sao nếu như mọi thói ngông cuồng, ấu trĩ của chúng ta được nhận lời?
Chúng ta giống như mọi sinh vật và cây cỏ: Cần phải có nhịp điệu của mùa màng, có sự luân phiên của nắng mưa, của mùa hè và mùa đông, và cả những cơn gió mạnh..., để lớn lên từ hạt, đến hoa và đến quả. Một hạt mầm sẽ ra sao khi nó từ chối mọi thử thách trong dòng phát triển và muốn đòi có mùa gặt ngay sau ngày gieo hạt?
Đức Giêsu dạy ta phải vững tin và kiên trì cầu nguyện. Thế nhưng, trớ trêu thay, thực tế đã xảy ra và Đức Giêsu phải đặt câu hỏi: "Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?". Nỗi đau của Đức Giêsu, nỗi đau của Thiên Chúa, thay vì có những tín hữu kêu cầu lòng nhân từ của Thiên Chúa, thì chỉ có những người vô tín ngày đêm không cầu nguyện, sẽ không còn ai hỏi: "Liệu Thiên Chúa có nhận lời cầu nguyện hay không ?". Đức Giêsu cảm thấy lo âu trước sứ mạng và sứ điệp của Người bị từ khước. Những người được tuyển chọn bị đe dọa bỏ đức tin.
Để kết luận, tưởng cũng nên kể một câu chuyện: Một đại chủng sinh đã viết: "Con lấy làm vinh dự sống trong một gia đình nghèo hèn, chỉ ăn cháo, không bao giờ biết đến bánh mì và thịt, họa may đôi ba lần trong một năm. Tuy gần 20 đứa con lớn bé đang chờ chực đĩa cháo, nhưng nếu có người đến ăn xin, mẹ vẫn mời họ ngồi ăn với chúng con". Bà mẹ đó chính là thân mẫu Đức Giáo hoàng Gioan XXIII, vị giáo hoàng vĩ đại của hòa bình, được cả thế giới mến phục, được thưởng Nobel hòa bình và là giáo hoàng của Công đồng Vatican II. Nhờ đâu, một bà mẹ quê mùa, nghèo khó đã biết dạy dỗ con nên người vĩ đại như vậy? Thưa chính là nhờ cầu nguyện với niềm tin sắt đá.
Lạy Chúa, xin cho chúng con kiên trì cầu nguyện, không chán nản, không buông thả bao giờ. Ước gì được như vậy.
Có một vở kịch, nhan đề ‘Phố Của Chúng Tôi’ (Our Town), nơi đó có một người phụ nữ trẻ bị chết. Việc xảy ra là cô ta được Chúa cho phép trở lại dương thế để sống lại một ngày của đời cô. Cô chọn ngày sinh nhật của tuổi 12. Trở lại thế gian, mới vài giờ trôi qua, cố ta la lớn ‘Tôi không thể, tôi không thể tiếp tục. Thời gian trôi qúa mau. Tôi không có thời gian để ngắm nhìn nhau… Ôi dương gian quá tuyệt vời cho bất cứ ai nhận ra nó. Rồi, với dòng lệ tuôn rơi, cô hỏi, ‘Con người có cảm nhận được đời sống, trong khi họ đang sống ở trần gian không? Tiếng thầm trả lời cô, ‘Không’. Các thánh và các thi sĩ có thể – đôi khi họ nhận ra.
Trong sách Các Vua kể câu truyện ông tướng Naaman được tiên tri của Chúa chữa lành bằng cách bước xuống sông Giođan tắm bảy lần. Naaman được thanh sạch các dấu vết của bệnh tật. Ông đã tỏ lòng tôn kính Thiên Chúa và trở lại dâng lời tạ ơn vị tiên tri của Chúa: Sau đó, ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Đến nơi, ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: “Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel. Vì thế, tôi xin ông nhận lấy phần phúc của tôi tớ ông” (2V 5, 15). Trước khi được rửa sạch tì vết phong cùi, Naaman là người dân ngoại. Ông chưa bao giờ nhận ra hồng ân sự sống và cuộc sống. Vâng lời người của Chúa, bước xuống dòng sông và bảy lần ngụp lặn dưới dòng nước, Naaman được hoàn toàn đổi mới. Từ ân huệ nhỏ được chữa lành, ông nhận ra ân huệ của sự sống và Đấng ban sự sống.
Naaman đã thay đổi tận tâm can. Ông đã hoàn toàn đổi hướng. Giờ đây, ông đã chọn Chúa làm gia nghiệp cuộc đời: Naaman nói thêm rằng: “Tuỳ ý ông, nhưng tôi xin ông ban phép cho tôi, là đầy tớ của ông, được chở một ít đất vừa sức hai con la chở được, vì từ nay ngoài Chúa, tôi tớ của ông sẽ chẳng dâng của lễ toàn thiêu hoặc hy lễ cho thần minh nào khác” (2V 5, 17). Qua sự khiêm cung và lòng thành tín, Naaman đã được Thiên Chúa chữa lành. Ông đã nhận lãnh hồng ân thanh tẩy cả hồn lẫn xác. Với lòng tri ân, ông đã trở lại tìm đến người của Chúa. Ông đã xưng tụng danh Thiên Chúa và tôn thờ Chúa. Một thái độ khôn ngoan tuyệt vời. Cũng thế, đã nhiều lần Chúa chữa lành tâm hồn thể xác của chúng ta. Mấy khi chúng ta nhận diện ra lòng thương xót và tình yêu của Chúa để dâng lời tạ ơn.
Biết rằng mọi sự trên thế gian này đã qua, đang qua và sẽ qua mau. Mỗi ngày chúng ta sống là mỗi giây phút rút bớt đời sống của chúng ta. Chẳng mấy ai nói rằng cuộc sống như thế là qúa đủ hay quá dài. Cho dù người thượng thọ cao niên vẫn muốn sống thêm, dù một ngày vắn gọn. Chúng ta cần trân quí món qùa của sự sống. Mỗi giây phút sống là hồng ân Chúa ban. Nếu buông bỏ giữa chốn hoang địa, chúng ta đã biến mất từ lâu. Ngay từ lúc được thụ thai trong lòng mẹ, chúng ta đã tùy thuộc vào người khác. Cha mẹ sinh chúng ta vào đời trần trụi. Từng giây phút, chúng ta bắt đầu nhận lãnh và chịu ơn suốt dọc cuộc sống. Hồng ân sự sống là cao trọng nhất. Thiên Chúa đã an bài môi trường chung quanh để đón nhận chúng ta vào đời. Xã hội con người đã gầy dựng và dọn sẵn sàng để đáp ứng nhiều nhu cầu cuộc sống. Chúng ta chỉ cần cố gắng bỏ công sức để đón nhận, góp phần và hoàn thành sứ mệnh.
Sự liên đới trùng điệp ân phước trong cuộc sống có một giây truyền nối tiếp. Kẻ đến trước, người tới sau. Ai cũng nhận ơn và cần có thái độ biết ơn. Biết ơn, cám ơn, tạ ơn, tri ân, mang ơn và trả ơn nói lên tính ưu việt của con người. Càng biết ơn, chúng ta càng sống làm người hơn. Chúng ta biết rằng không có sự gì là tự nhiên mà có. Phàm bất cứ sự gì đều có nguyên nhân và hậu qủa. Điều quan trọng là chúng ta nhận diện ra những hoa trái mà chúng ta đang thụ hưởng, cả tinh thần lẫn thể chất. Người đời rất đau lòng vì sự vô ơn, bạc nghĩa và phản phúc. Người ta nói là: Ăn cháo đái bát. Còn ngại hơn nữa khi thiên hạ nói: Cứu vật, vật trả ân. Cứu nhân, nhân trả oán. Cho dù sự giúp đỡ rất nhỏ nhoi lúc khởi đầu, nhưng đó chính bậc thang để giúp chúng ta tiến lên: Có bột mới gột nên hồ là thế. Tha nhân chính là ân nhân. Ai cũng có vô số các ân nhân ẩn danh trong cuộc sống. Tất cả những kiến thức và của cải chúng ta đang hưởng dùng, đều có sự đóng góp công sức của người khác. Thái độ biết ơn phải được trải dài mọi nơi và mọi lúc.
Trong bài phúc âm tường thuật câu truyện mười người phong cùi được Chúa chữa lành, nhưng chỉ có một người ngoại giáo trở lại dâng lời tạ ơn Chúa. Câu truyện làm cho chúng ta phải tự vấn lương tâm. Có thể chúng ta là những người tín hữu rất chân thành, nhưng bị loại tên ra ngoài. Thánh Luca tường trình: Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria (Lc 17, 15-16). Qua các Bí Tích trong Hội Thánh, chúng ta được rửa sạch tội nguyên tổ, được tha thứ các tội riêng, được nhận lãnh các ân sủng và nhận của ăn chữa lành và dưỡng nuôi hồn xác, bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta luôn nhớ dâng lời tạ ơn Chúa.
Chúa Giêsu không trách cứ những người đã được ơn chữa lành phong cùi. Chúa ngạc nhiên không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa: Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này (Lc 17, 18). Người làm ơn không đòi phải trả ơn. Nhưng người nhận ơn, có bổn phận cám ơn. Chúa nhắc nhở mỗi người chúng ta đừng bao giờ quên tạ ơn vì những ân phúc đang được vui hưởng. Truyện kể: Bob Evans, một người bị mù từ khi mới sanh. Năm 50 tuổi, nhờ cuộc giải phẫu, mắt của ông đã được nhìn thấy lần đầu tiên. Ông đã vui sướng một cách ngoại thường. Thế giới của ông đã thay đổi ngoài sức tưởng tượng. Qua bài phỏng vấn trong tờ báo, ông chia sẻ vài điều rất phấn khởi, “Tôi không thể đợi tới buổi sáng thức dậy để nhìn xem những cái tôi có thể nhìn thấy. Mọi sự qúa kinh ngạc trong thế giới. Ban đêm, tôi ngắm nhìn các vì sao lấp lánh…tôi như bay bổng trên cao. Bạn không nhận biết mọi sự mà bạn nhìn thấy là qúa tuyệt vời sao!
Chúng ta trải nghiệm cuộc sống với biết bao hồng ân. Thời gian sống thật quí báu. Chúng ta đã hoang phí biết bao thời gian trong đời một cách vô ích. Đôi khi chúng ta than rằng sao mà ngày dài thế, thời gian chán nản quá và tìm mọi cách để quên và giết thời gian. Thiệt là uổng phí! Thảm kịch của đời sống là chúng ta cố đạt tới cùng đích và chẳng bao giờ sống thực sự. Chúng ta chạy theo thời gian để hoàn thành hết ước mơ này sang ước mơ khác. Ít khi chúng ta dừng tâm lại để nhận biết sự hiện hữu thực sự trong tâm tình biết ơn. Biết ơn có nghĩa là chúng ta nhận diện và chạm tới cuộc sống. Tôi đang sống trong giây phút tuyệt đẹp này, đang hít thở thật đầy, ngắm nhìn thật kỹ và an hưởng tất cả những gì hiện diện chung quanh.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Timôthêô đã khuyên răn một cách rất chân tình: Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. Nếu chúng ta chối bỏ Người, thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta (2Tm 2, 12). Ngài vạch rõ con đường phải đi để được lãnh nhận ơn cứu độ. Chúng ta không có con đường nào khác ngoài sự tin tưởng và phó thác vào Đức Kitô. Tất cả những sự khổ đau đời này rồi cũng sẽ qua mau. Những khổ đau của chúng ta ở thế gian này chẳng là chi, so với hạnh phúc Nước Trời mà Chúa đã hứa ban.
Lạy Chúa, hồng ân Chúa bao la tuyệt vời. Từng hơi thở, từng nhịp sống và từng giây phút trong đời là những ân huệ Chúa thương ban. Chúng con chỉ biết cúi đầu tạ lễ và xin ơn phúc lành của Chúa. Cảm tạ ơn Chúa và tri ân đồng loại suốt cả đời.
Suy Niệm
Mười người phong đón gặp Đức Giêsu. Họ chỉ dám đứng xa, nài xin Ngài thương xót. Đức Giêsu không chữa cho họ ngay, Ngài muốn thử thách lòng tin của họ. Ngài bảo họ hãy đi trình diện với các tư tế như thể họ đã được khỏi bệnh rồi. Mười người phong đã vâng phục lên đường, và chính trên đường đi, tất cả được khỏi bệnh.
Niềm vui bất ngờ ùa vào lòng mọi người. Cả nhóm tiếp tục cuộc hành trình, trừ một người phong ở vùng Samari.
Lòng biết ơn đối với Đức Giêsu khiến anh quay lại, sấp mình dưới chân Ngài mà tạ ơn.
Chín người kia đâu?
Đức Giêsu ngạc nhiên đặt câu hỏi.
Chắc họ đã đi trình diện các tư tế như lời Đức Giêsu, nhưng họ quên Đấng mới ban ơn cho họ.
Họ vui mừng ngừng lại ở quà tặng, nhưng không vươn tới người tặng quà.
Họ đã có lòng tin nên được khỏi bệnh, nhưng họ lại thiếu lòng biết ơn cần thiết.
Lòng biết ơn khiến lòng tin trở nên sâu xa hơn, vì là gặp lại chính Đấng đã ban tặng.
Chín người kia đâu?
Đức Giêsu không làm phép lạ để được biết ơn. Ngài mong những người kia trở lại để gặp họ, và trao cho họ chính con người Ngài. Điều này còn quý hơn cả ơn được khỏi bệnh.
Ơn lành bệnh chỉ là nhịp cầu để ta gặp gỡ Đấng ban ơn, và lớn lên trong niềm tin cậy mến.
Chín người kia đâu?
Có khi tôi thường thuộc về nhóm chín người. Tôi quá quen với những ơn Chúa ban, đến độ thấy đó là chuyện bình thường, đến độ không thấy cần phải tỏ lòng biết ơn.
Thật ra, biết ơn phải là tâm tình chủ yếu chi phối lời cầu nguyện và cuộc sống của tôi.
Toàn bộ đời tôi là một hồng ân, một quà tặng. Tôi muốn sống đời tôi như một lời tạ ơn không ngừng.
Tạ ơn là mãn nguyện về những gì đã lãnh nhận, là thấy mình được bao bọc bởi Tình Yêu, và muốn làm mọi sự để đáp lại Tình Yêu đó.
Người phong vùng Samari đã trở lại tôn vinh Thiên Chúa, vì Ngài đã chữa anh lành bệnh qua Đức Giêsu.
Chúng ta cũng đã nhận được biết bao ơn Chúa từ tay những người xa lạ hay thân quen.
Xin cám ơn cuộc đời, cám on mọi người.
Đời tôi là quà tặng của Chúa cho tôi. Ước gì nó thành quà tặng của tôi cho mọi người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngày nay người ta nói nhiều về lòng biết ơn đối với thầy cô, cha mẹ. Theo bạn, tại sao nhiều bạn trẻ vẫn sống một cách lãnh đạm, vô ơn?
Có khi nào bạn tạ ơn Chúa vì những khó khăn và vấp ngã trong cuộc sống không? Bạn có thấy những mảng tối trong đời bạn cũng có thể là một ơn không?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha đã ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Theo lề luật Do thái, bệnh phong hủi phải được một tư tế kiểm chứng và kẻ bất hạnh bị tuyên bố là ‘ô uế’, bị gạt ra ngoài lề xã hội, nói với ai phải đứng đàng xa. Tên bệnh ấy thời xưa chỉ nhiều chứng bệnh ngoài da. Lâu lâu có người khỏi bệnh, họ cũng phải được một tư tế kiểm chứng, sau đó được trở về sinh hoạt bình thường. Như vậy, chúng ta hiểu tại sao Đức Giêsu dạy mười kẻ tật phong hãy đi trình diện các tư tế để được nhìn nhận lành bệnh. Trong số mười bệnh nhân, chỉ có mỗi một kẻ trở lại tạ ơn Thiên Chúa. Sau khi nêu rõ sự vô ơn của chín bệnh nhân kia, Chúa nhấn vào ba điểm: Kẻ biết ơn quê xứ Samaria, nghĩa là một kẻ ngoại giáo đối với người Do thái –kẻ ấy công khai tôn vinh Thiên Chúa– và được chữa lành vì có đức tin. Một số người nghĩ rằng, Chúa giải thích như vậy, phải chăng Người muốn gián tiếp xác nhận thần tính của Người. Dẫu sao chúng ta có thể nêu ra hiểm họa tội vô ơn nấp trong lòng người ta, nó là hình thức gớm ghiếc nhất của tính ích kỷ. Chúng ta cũng nhấn thêm vào bổn phận cảm tạ Thiên Chúa.
1) Tại sao chín kẻ phong hủi không nghĩ đến việc phải làm trước hết là trở lại tạ ơn Đức Giêsu?
Chắc hẳn họ hấp tấp muốn được xác nhận khỏi bệnh thật sự để sớm trở về trong xã hội. Họ quan tâm trước nhất đến việc đó, họ chỉ biết nghe theo tư lợi mà quên bẵng việc tạ ơn, hoặc giả nghĩ rằng tạ ơn sau cũng được, nghĩa là sẽ tạ ơn vào lúc quá muộn. Giữa một bên là quyền lợi về mặt xã hội vì khỏi bệnh, bên kia là tâm tình muốn tạ ơn tức khắc, họ đặt ưu tiên cho quyền lợi của họ. Đức Giêsu tỏ thái độ bằng cách lên án chủ nghĩa hình thức, nó bóp nghẹt tâm hồn. Chúa còn lên án như vậy nhiều lần nữa, nhất là khi nói đến ngày Hưu lễ. Không bao giờ Chúa coi rẻ Lề Luật, nhưng Người cho biết tín hữu nào tuân thủ Lề Luật mà thiếu đức tin sống động thì chẳng còn giữ được tình nghĩa con người. Chúng ta kết luận: Nếu vì tuân thủ Lề Luật, dẫu là Lề Luật Kitô giáo, mà quên mất những đức tính tự nhiên hoặc không nhớ đến sự khẩn thiết trước tiên của đời sống nội tâm –con người lúc đó không còn giữ được tinh thần tuân thủ đích thực.
2) Bổn phận tạ ơn.
Theo định nghĩa tôn giáo; tạ ơn là tâm tình biết ơn, thán phục, tôn vinh, sùng kính, dâng lên Thiên Chúa. Phúc Âm và Tân Ước trình bày Đức Giêsu là hiện thân của sự tạ ơn. Phúc Âm cho thấy con người ít có xu hướng tạ ơn không vị lợi, trong khi Đức Giêsu thì thường xuyên trong trạng thái tạ ơn Cha Người. Theo lời khuyên của thánh Phaolô, thái độ gương mẫu của Đức Giêsu phải là thái độ tất nhiên của người Kitô hữu. “Anh em hãy để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ” (Cl 2,7) – vì nhiều lẽ: vì ân huệ đức tin, vì ơn cứu chuộc, vì đức ái của Đức Kitô tràn đầy tâm hồn, vì Thánh Thần ngự trong Kitô hữu. Sống kết hợp với Đức Kitô là sống trong niềm tạ ơn Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Thánh Lễ lớn lao là hành động trung tâm tôn giáo của chúng ta là những người Công giáo. Bởi vì Thánh Lễ là hành động của Đức Kitô Thượng Tế và Thân Thể Ngài là Giáo Hội, đó là một tác động thánh vượt trên hết cả mọi cái khác. Không có gì có thể ngang với sức mạnh quyền năng của Thánh Lễ, có thể thay thế sự quan trọng của Thánh Lễ (x. Hiến chế về phụng vụ, đoạn 7).
Thánh Lễ thì giàu có phong phú mà chúng ta không có thể nào lưu lại hoặc nghĩ về trong một dấu hiệu đơn độc. Thánh Lễ là một hy tế không đổ máu của thánh giá, đó là bữa ăn tối của chúng ta, đó là việc tưởng nhớ sống động về mầu nhiệm Vượt Qua, và bí tích của sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, đó là Thân Mình thật của Ngài đã được tuôn đổ vì chúng ta, đó là bữa tiệc thánh mà trong đó Đức Kitô đã tiêu hủy Mình hoàn toàn, đó là những lời nài xin và lời hứa từ sự Phục Sinh và cuộc sống đời đời. Giữa những chỉ định rực rỡ này của Thánh Lễ, nhiều vị tư tế và dân chúng kể từ Công đồng Vatican II đã thường sử dụng một từ, từ đó là”hy tế Thánh Thể, Euchris”.
Euchris là một từ Hy lạp được dùng trong Tân Ước mà chúng ta đã chuyển dịch sang là: “Dâng lời tạ ơn”. Dâng lời tạ ơn có liên quan đến sự biết ơn mà chúng ta mắc nợ trong thời gian nơi bạn bè, cũng như nơi liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa; vì lý do này vị linh mục đọc: “Hãy để chúng ta dâng lời tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta”. Đáp lại: “Thật chính đáng để dâng lên Ngài lời tạ ơn và ngợi khen” và thêm lời”ngợi khen” là để chúng ta biết mình phải dâng lời tạ ơn lên Thiên Chúa. Chúng ta nhận biết rằng quan hệ của chúng ta với Cha trên trời, Đấng là Chúa và là Thiên Chúa chúng ta.
Hãy nhớ dâng lời tạ ơn là việc tốt đẹp, đừng để cho việc đó trở nên xấu xa. Khi một người trong mười người bị bệnh hủi đã được chữa lành trở lại ngợi khen Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã hỏi: “Còn chín người kia đâu?”. Chúng ta hầu như có thể nghe lại câu hỏi thất vọng của Ngài. Chúng ta cũng không cần làm thất vọng Chúa Giêsu và Cha của Người. Hãy nhớ rằng Thánh Lễ là hy tế tạ ơn của chúng ta là lời tạ ơn của chúng ta dâng cho Thiên Chúa.
Tất cả chúng ta đều có lý do để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa trong Thánh Lễ. Hôm nay chúng ta có thể ước ao cám ơn Chúa vì đặc ân sự sống nơi một em bé sơ sinh, hoặc chúc sức khỏe đã được phục hồi nơi một người già lão bệnh hoạn. Chúng ta cũng có thể dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về công việc sau một thời gian dài thất nghiệp, cho một giải pháp nơi một gia đình đang tranh cãi, hoặc cho một sự độ lượng của một người bạn tốt. Mỗi Chúa Nhật chúng ta cần hồi tâm lại về những động lực cá nhân của chúng ta để dâng lời cám ơn. Tiếp đó, chúng ta hãy nhớ rằng luôn luôn ở mọi nơi, mọi lúc là phải tạ ơn Thiên Chúa, đơn giản bởi vì Chúa là Thiên Chúa của chúng ta. Dâng lời tạ ơn diễn tả quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa.
Tạ ơn là một điều mà Naaman người Syria đã muốn dâng lên Thiên Chúa. Ông đã được tẩy sạch bệnh phong cùi sau khi đã tắm bảy lần trong dòng nước của sông Giođan. Ông đã yêu cầu lấy hai thúng đất của Israel để xây nên một Đền Thờ trên Syria, nơi quê hương của ông, để từ nơi đó ông có thể dâng lời tạ ơn với Thiên Chúa. Kinh nghiệm của ông như là một dấu hiệu của phép rửa chúng ta. Chúng ta đã rửa sạch trong phép rửa và đã được thông dự vào chức tư tế của Đức Kitô. Phép rửa kêu gọi chúng ta trở thành một dân thờ lạy Thiên Chúa, dâng cho Ngài lời tạ ơn và ngợi khen. Nhưng chúng ta không cần đất đặc biệt, không cần một vị trí đặc biệt, để dâng lời tạ ơn cho Thiên Chúa. Bất cứ khi nào Thánh Lễ cử hành, đó là lễ dâng đẹp nhất của lời cám ơn và ngợi khen Thiên Chúa. Đối với chúng ta luôn luôn mọi nơi và mọi lúc đều có thể dâng lời cám ơn Thiên Chúa và chúng ta làm điều đó khi cử hành hy tế Thánh Thể.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Đầu tháng 10 năm 1962, chiếc phi cơ hàng không PanAm (Mỹ), chở mấy trăm Giám mục người Mỹ đi họp Công Đồng chung Vatican II. Trong hai cô tiếp viên hàng không phục vụ hành khách, có một cô kiều diễm tuyệt vời. Đức Cha Fulton Sheen, Tổng Giám Mục giáo phận New York đồng thời là một nhà văn và một nhà hùng biện nổi tiếng Nước Mỹ, đã lưu ý đến sắc đẹp của cô tiếp viên nầy.
Thế rồi, khi phi cơ hạ cánh, hai cô đứng bên cửa xuống cầu thang chào từ biệt và hành khách đáp lại hai tiếng cám ơn. Nhưng đến lượt Đức Cha Fulton Sheen, người ta thấy ngài đưa miệng ghé vào tai cô tiếp viên xinh đẹp kia mà nói nhỏ một câu gì không ai nghe được.
Bốn tháng sau, khi khóa I Công Đồng chung Vatican II kết thúc, các Giám Mục được về nước nghỉ. Một hôm, cô chiêu đãi viên xinh đẹp nọ tìm đến gặp Đức Cha Fulton Sheen: “Thưa Đức Cha, Đức Cha còn nhớ con là ai không?” – “Tôi còn nhớ lắm, Đức Cha còn đáp. Cô là tiếp viên trên chiếc hàng không đưa chúng tôi đến Rôma”. – “Nhưng Đức Cha còn nhớ Đức Cha đã nói gì với con không?” – “Tôi đã nói: có khi nào cô đã tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho cô sắc đẹp tuyệt vời không?” – “Thưa Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà hôm nay con đến hầu chuyện Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà Cha nghĩ con phải làm gì để tạ ơn Chúa?”. Trước câu hỏi đột ngột, Đức Cha Fulton Sheen lúng túng không biết trả lời làm sao. Ngài trấn tỉnh, chấp tay lên ngực, rồi ngước mắt lên trời như thể xin ơn soi sáng. Trong chốc lát, ngài nói: “Cha vừa mới được một tin từ Việt Nam: đó là Đức Cha Jean Cassaigne, một người Pháp đang là Giám Mục giáo phận Sài Gòn, đã xin từ chức để đi phục vụ một trại phong cùi ở miền núi Di Linh – Lâm Đồng. Nhưng người phong cùi ở đó khốn khổ lắm con ạ! Họ đang chờ cái chết đến với họ. Vậy theo ý cha, cách tạ ơn Chúa đẹp lòng Ngài hơn cả và có ý nghĩa hơn cả là con hãy hy sinh một thời gian, đem nụ cười xinh tươi, đem tiếng nói dịu dàng, đem duyên sắc mặn mà của con để an ủi họ”. Mặt cô tiếp viên tái dần đi. Cô đứng lặng yên trong mấy phút. Đột nhiên cô cúi đầu tạm biệt không nói một lời. Rồi từ đó không biết hai người còn gặp nhau hay thư từ liên hệ gì nữa chăng. Nhưng đầu năm 1963, đài phát thanh cũng như báo chí ở Sài Gòn loan tin: “Một nữ tiếp viên rất xinh đẹp của hãng hàng không Panam tình nguyện đến Di Linh – Lâm Đồng để sống với những người phong cùi trong sáu tháng”.
Thưa anh chị em,
Cái nhìn đức tin thúc đẩy chúng ta tạ ơn Chúa là như thế đó. Nhận được ơn thì phải biết chia sẻ cho người khác, để nói với Thiên Chúa và anh em mình rằng: “Tất cả đều là hồng ân”. Biết bao ơn lành lớn nhỏ Chúa tuôn đổ xuống trên cuộc đời chúng ta. Có bao giờ chúng ta nhận ra những hồng ân ấy để dâng lên những lời cảm tạ mỗi ngày không? Những điều chúng ta đang có tưởng rằng tầm thường, nhưng thật ra lại rất phi thường. Đừng đợi khi mắt mù, tai điếc, cụt tay, què chân chúng ta mới nhận ra có thân thể lành lặn là quý giá vô cùng. Nếu chúng ta biết cám ơn những gì mình đang có, chúng ta sẽ biết cám ơn suốt đời vì tất cả những gì Ngài đã ban cho.
Chúa Giêsu đã hỏi: “Không phải cả mười người được khỏi phong cùi sao? Thế thì chín người kia đâu, sao không trở lại tạ ơn Chúa, mà chỉ có một người ngoại giáo nầy thôi?” Đối với người Do Thái, người bị phong cùi được coi như bị Thiên Chúa chúc dữ và còn bị luật coi là người mắc ô uế nhơ bẩn, bị xã hội khai trừ, phải sống biệt lập trong bãi tha ma, đi đâu thì phải lắc chuông lên tiếng báo động cho người ta xa tránh.
Nhưng Chúa Giêsu không xa tránh họ. Họ đã đến với Chúa như Chúa đến với họ. Vì Ngài là tình thương cứu chữa. Chỉ có tình thương mới tìm đến với những con người bị bỏ rơi, bị loại trừ. Trên đất nước chúng ta có hàng chục trại phong cùi. Một số trại do các tu sĩ, nữ tu đảm nhận điều hành, chăm sóc các bệnh nhân. Nếu ở Việt Nam tên tuổi của Đức Cha Jean Cassaigne gắn liền với trại phong cùi Di Linh thì danh tiếng của Đức Cha Đamien còn vang vọng giữa hải đảo Milokai – Thái Bình Dương, người mà nhà ái quốc Gandhi đã ca ngợi và nói: “Nên tìm hiểu đâu là nguyên do phát sinh một cuộc sống anh hùng như vậy”. Nguyên do của cuộc đời hy sinh ấy là tình yêu mến Chúa như Chúa đã yêu thương chúng ta cho đến tận cùng.
Vậy khi chúng ta được Chúa ban ơn, được mọi ơn lành hồn xác thì đừng quên cám ơn Chúa và đừng kiêu hãnh khinh miệt kẻ khác. Thánh Inhaxiô nói: “Tội lớn lao hơn cả là tội vô ơn”. Trong nhóm 10 người phong cùi được Chúa chữa lành, chỉ có một người đã trở lại cám ơn Chúa và người đó lại là người ngoại giáo. Nhiều khi chúng ta được ơn Chúa, nhưng không biết cám ơn Chúa. Khi hoạn nạn thì khấn vái bốn phương, khi được như ý thì quên lời đã nguyện hứa. Tệ hơn nữa, còn tự kiêu tự phụ khinh miệt những người xấu số, bệnh tật, nghèo khó, phong cùi.
Cám ơn là dấu chỉ của lòng tin. Chúa nói với người phong cùi biết ơn đang sụp lạy dưới chân Ngài: “Anh hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Chính lòng tin đã thúc giục người Samari phong cùi trở lại tạ ơn Chúa trước hết, đang khi chín người Do Thái kia lo đi trình diện các tư tế để được xác nhận và được hội nhập vào cộng đoàn. Trong bài đọc I hôm nay, quan Naaman sau khi dược lành sạch phong cùi, cũng vì lòng tin đã tìm đến Ngôn sứ Êlizê và tuyên xưng lòng tin vào Thiên Chúa: “Thật tôi biết, không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vụ ngoài một Thiên Chúa của Israel”.
Anh chị em thân mến,
Tạ ơn Chúa là dấu chỉ của niềm tin. Tạ ơn Chúa không chỉ là chuyện lễ nghĩa, nhưng là nét đặc trưng của những tâm tình mà con người phải có trước các ơn thiêng đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Việc bẻ bánh ngày xưa cũng như Thánh lễ ngày nay là gì? Phải chăng là tâm tình tạ ơn mà người Kitô hữu khiêm tốn và hân hoan dâng lên Thiên Chúa là Cha vì hồng ân Ngài đã ban cho chúng ta trong Đức Giêsu? Phải chăng là phương thế tuyệt hảo để chúng ta nhận thức lại sự phong phú đích thực của mình và tìm lại bình an của niềm tin giữa những lắng lo cuộc sống?
Cũng chính trong tâm tình tạ ơn đó, chúng ta họp nhau chung quanh Bàn Tiệc Thánh nầy để cử hành Thánh Thể – Bí Tích Tạ Ơn. Ước chi lễ tế tạ ơn nầy đem lại cho chúng ta bình an và niềm vui sướng vô hạn. Bình an và niềm vui của một đức tin đã gặp được Đấng Cứu Độ.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Vào thời Đức Giêsu, phong cùi là bệnh truyền nhiễm ghê tởm và đáng sợ nhất, không thuốc nào chữa được. Người mắc bệnh coi như đã chết, bị loại ra khỏi cộng đoàn không chỉ vì lý do vệ sinh, nhưng còn vì lý do thiêng liêng nữa. Sách Đệ Nhị Luật viết: "Nếu ngươi không nghe lời Giavê, Thiên Chúa của ngươi, mà tuân hành mọi giới luật Ngài ban... Giavê sẽ giáng xuống ngươi bệnh lở lói kinh khủng nơi đầu gối và chân, ăn từ bàn chân đến đỉnh đầu không sao chữa nổi" (Đnl 28,15-35).
Giavê đã trừng phạt, cộng đoàn cũng xa cách. Người phong cùi được phép vào các làng, nhưng không được đi vào đô thị có tường thành chung quanh. Do đó, họ càng không được vào thành Giêrusalem, không được đến gần các người khác. Người mắc bệnh phong cùi phải mặc quần áo rách rưới, râu dài tua tủa, phải sống biệt lập trên bãi tha ma, đi đến đâu phải cầm chuông lắc cho người ta tránh và phải la lên: Ô uế! Ô uế! Bao lâu còn mắc chứng bệnh ấy, bấy lâu còn bị ô uế.
Sách ký sự ghi lại Osias, vua Giêrusalem, bị phong cùi, thầy tư tế tức tốc trục xuất ông ta khỏi thành và chính ông cũng vội vã ra đi, vì thấy mình bị Thiên Chúa ruồng bỏ (II Ký sự 26, 19-21).
Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Luca kể: "Đức Giêsu từ Galilê tiến về Giêrusalem, khi đến Samaria, lúc Người vào một làng kia, có mười Người phong cùi đón gặp Người". Trong miền đất bị chúc dữ này, đây là những ngời bị chúc dữ nhiều nhất. Thật lạ lùng khi nhóm này gồm cả người Dothái lẫn người Samaria. Đau khổ và bệnh tật làm con người xích lại gần nhau, quên đi mối thù truyền kiếp giữa người Dothái và người Samaria. Biết thân phận mời người phong cùi đứng đằng xa và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi". Họ gọi Đức Giêsu bằng tên Người, một sự kiện tương đối hiếm trong Tin mừng.
Trong ngôn ngữ Aramêen, Jeshouah có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Kitô hữu gọi kinh cầu Chúa Giêsu, chính là lời cầu xin ấy được lặp lại nhiều lần: Lạy Chúa Giêsu xin thương xót chúng con... Trong thánh lễ chúng ta cũng lặp lại kinh này lúc đầu lễ Kyrie Eleison: Lậy Chúa xin thương xót.
Thay vì chữa họ lành ngay tức khắc, Đức Giêsu muốn thử thách lòng tin của họ. Cũng như ngày xưa ngôn sứ Êlisê sai môn đệ nói với quan Naaman người Siri :"Quan hãy đi tắm ở sông Giođan bảy lần". Đức Giêsu cũng bảo mười người phong cùi: "Hãy đi trình diện với các tư tế".
Vào thời đó, các Thầy tư tế có quyền chẩn đoán và quyết định người nào bị mắc, người nào khỏi. Ai mắc bệnh được thầy tư tế công bố là khỏi, người ấy sẽ được tái nhập vào cộng đoàn (Lv 14,3).
Khi truyền cho mười người phong cùi đi trình diện các thầy tư tế, Đức Giêsu đòi họ phải biết vâng lời trong đức tin. Ngài muốn hành vi tín thác đó phải được thể hiện bằng việc tuân phục lề luật. Đối với Đức Giêsu lề luật và ngôn sứ là khuôn vàng thước ngọc giúp người ta thực hiện ơn cứu rỗi, như Người đã đề cập trong dụ ngôn người phú hộ xấu bụng và Ladarô nghèo khó.
Khác với vị tướng lãnh Siri, mười người phong cùi tức tốc thi hành, không mảy may chần chừ. Đang khi đi, họ được sạch. "Một người trong bọn thấy mình được khỏi liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa." Thật kì lạ, Người quay lại cám ơn Chúa lại là một người ngoại, một người Samari. Nhưng đó chẳng phải là điều vẫn thường xảy ra đó sao? "Kẻ ở ngoài" coi mọi sự như quà tặng, "kẻ ở trong" coi mọi sự đều là hiển nhiên.
Người Dothái cho, mình thuộc tuyển dân có quyền đòi Thiên Chúa thi ân, không cần tỏ lòng biết ơn Người. Họ quên, cám ơn là một trong những tính nhân bản của con người. Ngạn ngữ Pháp có câu: "Biết ơn là kí ức của tâm hồn". Lời đầu tiên người Mỹ dạy con: "Thank You – Cám ơn".
Mỗi khi nhận được ơn từ ai, ta phải biết nói lời cám ơn. Đó là điều tốt đẹp cho ta, nó thúc dục ta nhận ra sự hàm ơn người khác và làm cho người cho cảm nhận rõ giá trị của việc họ làm. Người không biết ơn trong việc nhỏ, sẽ không biết ơn trong việc lớn. Điều quan trọng là phải có lòng biết ơn.
Thánh Inhaxiô nói : "Tội lớn hơn cả là tội vô ơn". Chín người Dothái không biết cám ơn, chỉ được khỏi bệnh phong cùi thể xác. Người Samaria biết cám ơn, khỏi phong cùi cả phần hồn là tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa, anh đã sấp mình dưới chân Đức Giêsu tạ ơn Người, một cử chỉ người ta chỉ dành cho Thiên Chúa.
Thiên Chúa không cần ta cám ơn, ta phải cám ơn Chúa vì mọi sự trong cuộc đời:
Hồng ân Thiên Chúa bao la.
Muôn đời con sẽ ngợi ca danh Người.
(Trích dẫn từ ‘Vietvatican.org’ - bài viết của Nguyễn Hiền Nhu)
Tin Mừng Lc 17, 11-19, thánh sử Luca thuật lại câu chuyện xảy ra khi Chúa Giêsu đang trên đường tiến lên Giê-ru-sa-lem. Có mười người phong hủi đón Ngài để xin Ngài chữa lành. Họ không dám tiến tới gần Ngài nhưng chỉ đứng đằng xa. Họ cất tiếng thưa rằng: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Ngài bảo họ đến trình diện với tư tế, và họ đã vâng lời Ngài. Trên đường đi, tất cả mười người đều được sạch. Trong mười người đó, có một người đã quay trở lại cám ơn Ngài.
Được sạch là một niềm mong mỏi bấy lâu trong họ. Đã lâu lắm rồi, họ hằng khao khát được lành lặn, được sống gắn bó với những người mình thương yêu. Nhìn thấy người ta áp má chúc lành nhau, bắt tay hỏi han sức khỏe của nhau, họ ao ước được một lần như thế. Sách Lê-vi viết rằng: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’ Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.” (Lv 13,45-46).
Người bị bệnh phong bị xem là ô uế. Họ bị tước quyền chung sống với những người thân quen; họ phải sống riêng ra. Họ bị đẩy ra bên lề xã hội. Tôi còn nhớ thời gian tôi được gởi đến sống với người phong tại Trại Phong Bến Sắn ở Bình Dương. Có một bệnh nhân phong thuật lại với tôi câu chuyện của chị: một ngày kia, trên đường về nhà, chị bước vào quán ăn để mua ít thức ăn cho con. Có một người phát hiện chị đến từ trại phong, thế là người đó la lên, và tất cả lần lượt bỏ bàn ăn đi nơi khác, cách xa chị. Thế đó, xã hội ngày nay, những bệnh nhân phong đang bị hất hủi. Xã hội ngày xưa đối xử với người phong còn tệ hơn thế. Để bảo vệ những người khác, họ buộc các bệnh nhân phong tự mình thốt lên “Ô uế! Ô uế!” (Lv 13,45) để người ta biết và tránh xa. Không ai dám đến gần bệnh nhân phong, không ai dám làm bạn với họ. Họ bị cô lập. Có lẽ nỗi đau thể xác do đặt tính của bệnh phong mang lại sẽ không nặng bằng nỗi đau tinh thần do sự kỳ thị của xã hội gây ra cho họ.
Hơn thế nữa, xã hội Do Thái thời bấy giờ quan niệm bệnh tật là do tội lỗi, người bị bệnh là người phạm tội và bệnh là án phạt của Thiên Chúa. Như vậy, người phong hủi còn bị hao mòn tinh thần từng ngày do mặc cảm tội lỗi.
Thấu cảm được vết thương khốn cùng của những bệnh nhân, Chúa Giêsu đã chữa lành bệnh cho họ. Việc chữa lành của Chúa không đơn thuần chỉ là việc chữa lành của một bác sỹ. Có lẽ hơn ai hết, Chúa đã hiểu những khát khao sâu kín trong lòng của họ. Chúa bảo họ đi trình diện tư tế, đi đến với người có thẩm quyền về phương diện xã hội cũng như tôn giáo thời bấy giờ để được kiểm chứng đã thanh sạch. Theo luật Lê-vi, một bệnh nhân phong khi được lành bệnh, phải đi trình diện với tư tế. Sau khi được tư tế khám xét, nếu như họ đã được lành bệnh, thì sẽ được tư tế tuyên bố là sạch. Khi được tuyên bố thanh sạch rồi, họ mới được quyền sống chung với xã hội, mới được hưởng những gì cơ bản nhất của một thành viên trong cộng đồng (x. Lv 13).
Từ thân phận người bị xã hội đẩy ra ngoài, giờ đây, họ được đón nhận. Chính Chúa đã mang lại cho họ niềm vui đó. Giờ đây, họ hoàn toàn có thể được sống chung với người thân, hoàn toàn có thể sánh bước cùng người họ thương yêu trên con đường làng vào mỗi buổi chiều. Họ sẽ không còn mặc cảm tội lỗi nữa. Quá khứ đã qua đi, và chính Chúa đã mở ra cho họ một cuộc sống mới. Nỗi đau trước đây bây giờ đối với họ sẽ là một kinh nghiệm quý giá; kinh nghiệm ấy đưa họ tới yêu quý cuộc sống họ đang có hơn.
Tuy nhiên, khi thấy mình được sạch, một người trong số họ đã quay trở lại để cám ơn Chúa. Một việc làm nhỏ bé nhưng tuyệt vời. Anh đã tạm quên con đường đi nhanh đến trình diện vị tư tế để được tuyên bố thanh sạch. Anh đã tạm quên đi niềm mơ ước bấy lâu của mình để quay trở lại cám ơn Đấng đã mang lại cho anh niềm vui. Niềm vui của anh đã trở nên trọn vẹn hơn khi anh được chính Chúa tuyên bố “con hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của con đã cứu chữa con”. Chúa khen ngợi lòng tin của anh. Quà tặng chỉ là phương tiện để dẫn đưa con người tới gặp Đấng tặng quà. Niềm vui của anh giờ đây trọn vẹn hơn vì không chỉ anh được thanh sạch, mà còn được gặp Đấng Chữa Lành anh. Tâm hồn anh giờ đây tràn ngập hân hoan.
Có lẽ trong tương lai, khi gặp lại Chúa, chín người kia sẽ cám ơn ngài. Có lẽ trong thâm tâm của họ đang mang một niềm tri ân nào đó mà họ chưa ý thức hoặc chưa có cơ hội diễn tả. Phải chăng niềm vui đó đã đến với họ quá bất ngờ, quá lớn lao, khiến họ quên cám ơn ân nhân của họ. Dường như có một chút gọi là vô ơn nơi họ, một chút vô tâm khi họ xem trọng ân huệ hơn là Đấng ban ơn. Họ đã không đủ nhạy bén để nhận ra rằng mình đã bỏ qua một cơ hội quý giá để đếp gặp Đấng đã ban ơn cho mình. Họ hân hoan vui mừng và đi tiếp con đường để hòa mình vào xã hội; đó là điều tốt đẹp, nhưng sẽ tốt đẹp hơn biết bao nếu họ không chỉ dừng lại với niềm vui hiện tại của bản thân để dành giây lát tri ân Đấng ban cho họ niềm vui đó. Chúa không hề hẹp hòi với họ, không hề vì một chút vô ơn của họ mà rút lại quà tặng. Cho dù họ có quay trở lại cám ơn Ngài, hoặc cho dù họ đã quên Ngài đi chăng nữa, thì chính Ngài là Đấng đã khôi phục quyền được sống như một con người của họ. Hy vọng rằng sẽ có một dịp nào đó họ sẽ nhận ra sự thiếu sót này và quay trở lại tri ân Ngài.
Một lời trách nhẹ nhàng của Chúa “còn chín người kia đâu?” như một lời nhắc nhớ những người nghe lời này của Ngài ý thức được lòng biết ơn của mình. Có khi tôi cũng thuộc về nhóm chín người kia. Hằng ngày, tôi vẫn nhận biết bao ơn lành từ Ngài; nhận nhiều đến độ tôi cảm thấy là bình thường và không cần thiết phải cám ơn. Chúa ơi, xin đừng để con vô cảm trước những ân huệ của Chúa. Từng giây từng phút trong đời con được bao bọc bởi tình yêu vô biên của Ngài. Hãy biến đổi tâm hồn con để cuộc đời con trở nên một lời tri ân Ngài.
Suy niệm 1: ĐIỀU ẤY XẢY RA NHƯ THẾ NÀO?
Vào thời đại của Đức Giêsu, bệnh phong hủi không có thuốc chữa. Khi một người mắc phải bệnh ấy, có sống cũng như chết. Thế mà tại sao chín người phong hủi đã không trở lại để cám ơn Đức Giêsu vì Người đã chữa lành cho họ? Chúng ta không lạm dụng trí tưởng tượng của chúng ta khi vẽ lại những gì đã xảy ra. Chúng ta giả sử điều đó xảy ra trong thời đại của mình.
Người thứ nhất là Miriam, vợ của một người bán hàng. Khi về lại nhà, bà thấy nhà mình bừa bãi, lộn xộn. Không phải do lỗi của chồng bà. Ông phải tất bật với công việc. Trở lại gặp Chúa không còn là vấn đề nữa – ít ra là trong lúc này.
Người thứ hai là Aaron, một nông dân. Mùa hè này là một mùa tồi tệ, và toàn thể mùa màng có nguy cơ bị mất trắng. May mà dự báo thời tiết đã nói rằng thời tiết tốt, có mưa nhiều đúng vào những ngày ông có thể trở lại.
Người thứ ba là Saul. Khi ông ta trở lại nhà, gia đình ông đã mở tiệc mừng ông. Họ không muốn nghe ông nói đi đến nơi nào đó. Ông đã không xa nhà đủ rồi hay sao? Chính họ đã ngăn cản ông trở lại gặp Chúa.
Martha là người thứ tư. Khi chị trở về nhà thì chương trình Tivi chị ưa thích vẫn còn, trong thời gian sống cách ly vì bệnh phong hủi, chị luôn thèm khát được xem chương trình đó. Giờ đây chị mải mê với chương trình ấy. Chị muốn ngày mai trở lại gặp Chúa. Nhưng ngày mai không bao giờ đến.
Người thứ năm là Daniel. Trước khi ông bị phong hủi, ông rất thành công trong kinh doanh, khi ông về đến nhà, ông thấy việc kinh doanh hoàn toàn suy sụp. Trở lại gặp Đức Giêsu không nằm trong các ưu tiên của ông. Chẳng bao lâu sau, ông hoàn toàn quên việc đó.
Amos, người thứ sáu không có nhà để về. Anh đã cảm thấy rất cay đắng về căn bệnh phong hủi của mình và về cuộc sống chung. Khi anh trở về, anh gom góp được ít tiền bạc mà người ta cho anh, về đến thành phố, anh uống rượu. Việc trở lại không bao giờ có trong đầu anh.
Peter là người thứ bảy. Khi anh về nhà, anh không có việc làm. Vì thế khi nghe nói về một cuộc phỏng vấn để được nhận vào một chỗ làm tốt, anh đến ngay. Trong lúc này, anh không thể trở lại.
Anna là người thứ tám. Lúc đó nhiên liệu đang bị khan hiếm. Chị hiện đang trên đường về nhà thì thấy một trạm xăng còn mở cửa. Chị phải xếp hàng ba giờ liền để được đổ đầy bình xăng. Sau đó chị đi thẳng về nhà. Thật đáng thương khi muốn phung phí xăng cho một cuộc hành trình thật sự không cần thiết.
Người thứ chín là Joseph. Khi ông ta về nhà, ông ta quyết định bán câu chuyện của ông ta cho một tờ báo. Không để mất thời gian. Một người khác có thể có cùng ý tưởng ấy và sẽ phỗng tay trên. Quay lại không có chỗ trong kế hoạch của ông.
Sau cùng, đó là Simon. Ông có mấy lý do để không quay trở lại. Một lý do đặc biệt thuyết phục. Ông là người Samari lại được một người Do Thái chữa lành. Một người Samari cám ơn một người Do Thái không phải là chuyện dễ. Nhưng là một người nhân ái, ông gạt bỏ những lý lẽ ấy và quay lại để cám ơn.
Xin lỗi! Những lý lẽ ấy xem ra nguỵ biện, đê tiện, trơ trẽn và rác rưởi. Nhưng có hiệu lực trong chín trên mười trường hợp. Chúng ngăn cản chín người ấy làm một việc mà có lên trời người ta cũng phải làm.
“Chúng ta viết trên cát những ơn ích mà chúng ta nhận được, nhưng viết trên đá cẩm thạch những tổn thất” (Thomas More).
Chín người phong hủi không thể diễn tả lòng biết ơn. Sự vô ơn ấy nói với chúng ta điều gì? Điều đó nói lên rằng họ chỉ lành lặn ở ngoài da. Bệnh phong hủi đã hết, nhưng không có gì khác nơi họ đã thay đổi. Sau kinh nghiệm cay đắng ấy, họ trở về với những thái độ cũ, những tập quán, mục tiêu của họ và sự nông cạn của cuộc đời. Họ đã không học được gì từ đau khổ của họ. Đây là một bi kịch thật sự.
Nhưng rõ ràng người Samari đã học được từ kinh nghiệm đau thương của mình. Kể từ đó, ông đã trở thành một con người hoàn toàn đổi khác, như Naaman sau khi được Êlisa chữa lành phần xác. Naaman và người Samari được chữa lành cả xác lẫn hồn.
Trong những lúc tốt đẹp, chúng ta quên mất Thiên Chúa, dù rằng chúng ta vẫn tiếp tục phục vụ Người bằng môi miệng. Nhưng rồi một cơn bệnh đến bắt chúng ta phải quỳ gối xuống, và bất ngờ chúng ta đối diện với sự nghèo nàn, yếu đuối và tính dễ chết của chúng ta. Tuy nhiên, nếu điều ấy đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn và làm cho chúng ta sống tâm linh hơn thì nó đúng là một ơn lành trong bộ áo cải trang. Dường như trong mười người phong hủi, chỉ có một người được đưa đến gần Thiên Chúa hơn qua bệnh tật và sự bình phục của người ấy.
Suy niệm 2: CÁI NHÌN SÂU XA HƠN
Câu chuyện mười người bị phong hủi có một bài học rất rõ ràng, đó là tầm quan trọng của việc bày tỏ lòng biết ơn. Nhưng nó có một bài học khác: Tìm thấy Thiên Chúa qua đau khổ. Đau khổ có thể đưa con người rời xa Thiên Chúa hoặc có thể đem họ đến gần Thiên Chúa. Nhiều người trở lại đạo là những tân tòng của Ngày Thứ Sáu Tốt Lành: họ vào Nước Chúa qua những cái cổng của đau khổ. Naaman là một gương tốt.
Vào một giai đoạn của đời mình, ông ở đỉnh cao của ngọn sóng. Ông có một công việc danh giá: chỉ huy trưởng đạo quân hùng mạnh của nước Syri. Ông được nhà vua kính nể có quyền lực và danh tiếng. Ông ta không cần Thiên Chúa. Tôn giáo không có vai trò nào trong đời sống của ông. Ông là kiểu mẫu của một số người thành công hôm nay. Họ dường như không dành chỗ cho Thiên Chúa trong đời họ.
Tuy nhiên, khi ông đã đạt đến đỉnh cao của quyền lực, ông mắc một chứng bệnh kinh khủng: bệnh phong hủi. Thình lình, thế giới của ông bắt đầu tan rã.
Một phút trước, ông ở đỉnh cao của thế giới. Một phút sau ông rơi xuống vực thẳm.
Tuyệt vọng về việc chữa trị, ông phải nuốt trửng lòng tự hào và tìm kiếm sự giúp đỡ của ngôn sứ Êlisa ở Do Thái, một quốc gia nhỏ bé mà ông đã từng cướp bóc và khinh miệt. Tuy nhiên điều ông tìm kiếm là một “thứ thần dược” để ông có thể sớm quay về và đảm nhận đời sống cũ giống như trước đây.
Nhưng ông đã mau chóng nhận ra rằng không có thứ thần dược ấy; không có sự chữa lành mau chóng và không đau đớn. Vì thế ông phải học để trở nên khiêm nhường và nhẫn nại. Ông đã học tuân lệnh để thay đổi. Nhưng thời gian ông bỏ ra không uổng công bởi vì ông không chỉ được chữa lành bệnh phong hủi mà còn được hoán cải. Ông tìm thấy Thiên Chúa chân thực. Vì thế sau cùng ông có lý do để cám ơn bệnh phong hủi của ông, bởi vì qua đó ông đã nhận được ơn đức tin.
Người ta tự hỏi chín người phong hủi thu được gì từ kinh nghiệm khủng khiếp của họ. Khi họ không tạ ơn Thiên Chúa thì không chắc họ đã rút ra được lợi ích tâm linh nào từ kinh nghiệm ấy.
Giống với ông Naaman trước khi mắc bệnh, trong những thời kỳ tốt đẹp, chúng ta bỏ quên Thiên Chúa, dù rằng chúng ta vẫn tiếp tục phục vụ Người bằng môi miệng. Nhưng rồi một bệnh tật hoặc một cái gì tương tự bắt chúng ta phải quỳ gối, và chúng ta bất ngờ đối diện với sự nghèo nàn, yếu đuối và phải chết của chúng ta. Chúng ta nhận ra nền móng mà trên đó chúng ta đã xây dựng bao nhiêu niềm hy vọng sao quá mong manh, nông cạn.
Nếu điều ấy đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn và làm cho chúng ta sống tâm linh hơn thì đó là một sự chúc lành trong bộ y phục cải trang. Dường như chỉ một trên mười người phong hủi đã được đưa đến Thiên Chúa gần hơn qua bệnh tật và sự bình phục của người ấy.
Chúng ta không phải lúc nào cũng làm chủ những gì xảy đến với chúng ta, nhưng chúng ta phải làm chủ phản ứng của chúng ta khi sự việc xảy đến. Ví dụ như, có hai người bị thương nặng trong một tai nạn. Một người chọn cách sống cay đắng kinh nghiệm ấy và bị nó huỷ hoại. Người kia sống kinh nghiệm ấy với lòng biết ơn. Người này tin rằng dù sự việc xảy ra là gì, dù nó có đau khổ thì nó vẫn có thể đem lại một điều tốt. Vấn đề không phải là quên nó đi mà nhớ đến nó và hội nhập nó vào trong đời sống của mình.
Ước muốn đền đáp lại một điều gì là một dấu chỉ cao cả của lòng biết ơn. Khi bạn có đầy lòng biết ơn, bạn sẽ không có chỗ cho sự cay đắng hoặc căm giận. Mọi người hạnh phúc đều biết ơn. Những người bội bạc không thể có hạnh phúc.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một ngày nọ, David bố thí cho một người nghèo mà ông gặp trên đường phố. Khi ông tiếp tục bước đi ông bắt đầu cảm thấy một niềm vui thoả mãn bừng lên trong ông. Nhưng rồi một bóng tối lướt qua ông – ông nhớ lại người nghèo đó đã không cám ơn ông. Sau đó, ông kể lại sự cố cho vị giáo trưởng của ông. Vị giáo trưởng kiên nhẫn lắng nghe, sau đó ông này nói: “Ông cảm thấy thế nào khi ông bố thí?”
“Tôi cảm thấy rất vui” David đáp.
“Điều đó không đủ là phần thưởng cho ông sao?”
“Con vẫn nghĩ rằng hắn ta phải cám ơn con”, David nhấn mạnh.
“Chắc chắn ông không muốn được cám ơn vì đã có hành động như một người theo đạo phải có? Vậy thì ông đã cám ơn Thiên Chúa chưa?”.
“Về điều gì?” David ngạc nhiên hỏi.
“Vì Người đã ban cho ông cơ hội trở nên một công cụ để tình yêu của Người đến với một người đồng loại của ông”, câu đáp là như thế.
Mười người phong cùi hình như đã có một niềm tin lớn lao. Họ nghe nói về Đức Kitô và tin rằng Ngài có thể chữa lành họ. Chính vì niềm tin đó, mà họ đã vượt qua những luật lệ cưỡng bách họ sống tách biệt.
Họ đến một làng nhỏ, tiến gần đến Đức Giêsu và xin Ngài thương họ. Họ đã thất vọng hoàn toàn đối với khả năng của con người, chỉ còn tin tưởng vào sự cứu giúp của Đức Kitô thôi.
Niềm tin đó đã bị thử thách và rồi được giữ vững, vì Chúa Giêsu không chữa cho họ ngay, Ngài gửi họ tới trình diện với các tư tế, đó là lệ thường đối với những người được chữa khỏi: nhưng đây họ đâu đã được khỏi. Do đó, người ta có thể đoán được rằng họ sẽ đứng im, không nhúc nhích cho tới khi Chúa giải thoát họ khỏi cơn bệnh ghê tởm.
Thế mà, họ lại đã tin, chỉ dựa vào có một lời của Ngài thôi. Và rồi đang khi đi, họ thấy mình được khỏi, họ có niềm tin đích thật, dầu vậy, đó cũng chỉ là niềm tin bất toàn. Họ còn bám víu vào ngoại cảnh, nhắm vào tật bệnh và sự lành lặn của họ.
Vì thế, họ không khám phá được Đấng chữa lành họ là ai. Họ chưa đi sâu vào cái chính yếu. Ngoài sức khoẻ thể xác, Ngài còn ban cho họ sức khoẻ của tâm hồn.
Chỉ có một người, lại là người ngoại quay lại tìm gặp Chúa Giêsu, tuyên xưng đức tin vào Thiên tính của Ngài và phục lạy để tỏ lòng cảm tạ tri ân.
Chỉ có người này có được đức tin hoàn toàn. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nói với anh ta: ‘Hãy chỗi dậy mà về, lòng tin của anh đã chữa anh’. Cả xác lẫn hồn được giải phóng, được chữa bệnh và thánh hoá một lượt.
Anh ta không còn bị bận trí vì cái thân xác phong cùi vây hãm. Đức tin hoàn toàn không dừng lại ở việc chữa trị mà phải dừng lại ở người chữa mình; không phải ở công việc mà là ở tác giả của công việc đó. Đức tin chân thực vượt lên trên mọi dấu chỉ, để được gặp gỡ Thiên Chúa hằng hữu.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không làm một cử chỉ phù phép nào để chữa lành tức khắc mười người phong cùi, mà Ngài lại sai họ đi trình diện với tư tế trước đã. Họ đã làm theo lệnh của Ngài và tất cả đã được chữa lành, nhưng kỳ thực có phải tất cả mười người phong cùi đã được chữa lành không? Xem chừng như Tin Mừng muốn nói với chúng ta rằng, chỉ có một người thực sự được chữa lành, người đó chính là người ngoại bang xứ Samaria, một kẻ thù không đội trời chung với người Do thái. Chỉ có kẻ ngoại bang này được thực sự chữa lành, bởi vì ông ta không những được lành lặn trong thân xác, mà còn được chữa lành trong tâm hồn. Chúa Giêsu đã nói với ông ta: “Đức tin của ông đã cứu chữa ông”.
Có đức tin là nhìn nhận rằng, Chúa Giêsu không những là nguồn mạch duy nhất có thể chữa lành bệnh tật thân xác mà Ngài còn mang lại niềm vui, sức sống hy vọng cho tâm hồn. Chính đức tin đã khiến cho người xứ Samaria đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu để cảm tạ và thờ lạy Ngài. Người Samaria này không chỉ thấy mình đã khỏe trong thân xác, mà còn nhận được sức sống niềm tin bừng dậy trong tâm hồn, đó mới là điều quan trọng.
Tất cả mọi phép lạ của Chúa Giêsu đều nhắm đến việc phục hồi sức khỏe tâm linh ấy. Dĩ nhiên, Đức Giêsu mang đến cho con người ơn cứu rỗi toàn diện, còn việc được no cơm ấm áo, được khỏe mạnh trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ cần làm một cử chỉ hoặc Ngài chỉ phán một lời thì nhân loại có thể đạt được giấc mơ ấy. Thế nhưng, đó không phải là đường lối của Thiên Chúa. Ơn cao cả nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho con người và Tin Mừng vĩ đại nhất mà Ngài mang đến cho con người trước hết chính là “niềm tin”. Có niềm tin là làm được tất cả. Chúa Giêsu đã chẳng nói với chúng ta sao: “Đức tin của con đã cứu con”.
Giấc mơ thông thường của con người là được giàu sang, được quyền bính, được sức khỏe tràn đầy, nhưng Thiên Chúa lại mở ra cho chúng ta một chân trời mới, đó là chân trời của đức tin. Có đức tin là có sức mạnh để đương đầu với mọi thử thách khổ đau của cuộc sống. Có đức tin là được chữa lành mọi thứ bệnh phong cùi của thất vọng, ích kỷ, tham lam. Có đức tin là có đủ sức mạnh để ra khỏi chính mình và không ngừng đến với tha nhân trong tin yêu và hy vọng.
Với cử chỉ của người Samaria trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy chạy đến với Chúa, sấp mình dưới chân Chúa để thờ lạy, cảm tạ tri ân Ngài. Vì Ngài đã ban cho chúng ta ơn đức tin, đưa chúng ta vào chân trời của sự sống, của niềm vui đích thực và của hy vọng tràn đầy.
Nguyện cho sức sống đích thực mà Ngài trao ban cho chúng ta hôm nay chữa lành được bệnh hoạn cùi hủi của tâm hồn chúng ta. Và với một tâm hồn tràn ngập hân hoan, chúng ta cũng hãy mau mắn ra đi chia sẻ Tin Mừng cứu độ của Ngài cho tất cả mọi người.
Nhờ có cuốn sách Sehirdler’s Ark và cuốn phim Schindler’s List, tên của Oskar Schindler được hàng triệu người trên thế giới biết đến. Schindler là một nhà công nghiệp người Đức. Trong suốt Thế chiến II, ông đã cứu hàng ngàn người Do thái ở Ba Lan khỏi các trại tập trung. Khi chiến tranh chấm dứt, quân Đức rút khỏi Ba Lan và người ta chờ đợi quân Liên Xô đến. Ngay trước khi quân Liên Xô đến, Schindler cũng đã quyết định trốn qua phương Tây.
Khi những công nhân người Do Thái, giờ đây đã được tự do nghe tin ông ra đi, họ họp lại để xem có thể bày tỏ lòng biết ơn ông như thế nào. Phải bắt tay ngay để làm một món quà bằng kim loại. Rồi một người gợi ý một cái gì tốt hơn. Ông ta mở miệng mình ra và chỉ chiếc răng vàng.
“Hãy lấy cái này”, ông nói, “Nó mà còn là nhờ có Oskar, bọn mật vụ SS muốn chiếm lấy các vật dụng bằng mọi cách. Cái răng của tôi lẽ ra cũng đã ở trong đống đồ trong nhà kho của SS, giữa những chiếc răng vàng của những người khác”.
Ban đầu, những người khác phản đối đề nghị ấy, nhưng vì người ấy nài nỉ mãi nên người ta nhận. Một tù nhân trước kia là nha sĩ ở Cracow đã lấy cái răng vàng đó ra khỏi hàm răng. Một thứ kim hoàn trong số họ nấu chảy vàng và tạo thành một chiếc nhẫn. Vòng bên trong của chiếc nhẫn, người ta ghi những lời lấy từ Kinh Talmud: “Người nào cứu sống chỉ một mạng người, người ấy cứu sống toàn bộ thế giới”.
Đó là một cử chỉ bày tỏ lòng biết ơn làm người ta ngạc nhiên và cảm động sâu xa. Đó là một trong những việc kỳ diệu về lòng biết ơn –nó làm cho chúng ta muốn đền đáp một điều gì. “Lòng biết ơn là ký ức của tâm hồn” (Tục ngữ Pháp). Nhưng rồi người ta phải nói rằng đó là điều tối thiểu mà người ta có thể làm khi người ta mang ơn Schindler về cuộc đời của họ.
Mười người phong hủi trong Tin Mừng cũng mang ơn Đức Giêsu về cuộc đời của họ. Tuy nhiên, chỉ có một người trở lại để cảm ơn Người.
Dường như cũng kỳ lạ khi người quay trở lại để cảm ơn là một người ngoài cuộc –một người Samari. Nhưng điều đó không thường xảy ra đó sao? Người trong cuộc cho rằng mọi sự là đương nhiên và chính người ấy cũng được coi là đương nhiên. Trái lại, người ngoài cuộc nhìn mọi sự vật là một ân huệ. Chúng ta thấy bài đọc I cũng một ý tưởng. Người nước ngoài Naaman trở lại để cảm ơn Êlisa vì đã chữa cho ông khỏi bệnh phong hủi.
Chúng ta đòi người khác biết ơn mình hơn là tỏ lòng biết ơn người khác. Điều này chỉ ra lòng ích kỷ của chúng ta khi chúng ta thi ân. Nếu có người nào nhận thấy người anh em mình vô ơn, bội bạc thì người ấy không tìm kiếm hạnh phúc cho người khác mà tìm kiếm hạnh phúc cho chính mình.
Đức Giêsu đòi hỏi lòng biết ơn, không phải cho chính Người. Điều Người nói là: “Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”. Qua đó rõ ràng Người không nghĩ đến chính mình. Người nghĩ đến những người phong hủi. Người nhận một ân huệ có thể bày tỏ lòng biết ơn là một điều tốt và cần thiết.
Chúng ta biết bày tỏ lòng biết ơn là một việc rất quan trọng. Trước tiên điều ấy tốt cho chúng ta, nó bắt buộc chúng ta phải biết món nợ mà chúng ta còn mắc người khác. Lòng tri ân dĩ nhiên cũng tốt cho người khác ấy –nó làm cho người làm ơn cảm thấy được đánh giá cao. Người không cảm ơn điều nhỏ, sẽ không cảm ơn điều lớn. Vì thế điều quan trọng là biết ơn và đánh giá cao các ơn huệ nhỏ mà người khác làm cho chúng ta cũng như các dịch vụ mà chúng ta nhận được mỗi ngày.
Về việc thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần những lời cảm ơn của chúng ta nhưng chúng ta cần cảm ơn Thiên Chúa. Điều ấy nhắc chúng ta rằng mọi sự mà chúng ta có đều do Thiên Chúa ban cho. Cảm ơn Thiên Chúa về điều xảy đến cho chúng ta là việc dễ dàng. Nhưng chúng ta cố gắng biết ơn về trọn cả cuộc đời mình: điều xấu cũng như điều tốt, những niềm vui và nỗi buồn, những thành công và thất bại. Đó không phải là một việc dễ dàng. Chúng ta chỉ thật sự gọi mình là những người có lòng biết ơn khi chúng ta có thể nói lời cảm ơn về mọi việc đã đưa chúng ta đến giây phút này. Loại tri ân này làm chúng ta có khả năng cải tạo toàn bộ quá khứ của chúng ta và coi nó như là con đường cụ thể trong đó Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta đến giây phút này.
Khi chúng ta nhìn lại đời sống của mình, chúng ta thấy rằng những điều làm tổn thương chúng ta và những điều giúp đỡ chúng ta không thể tách rời nhau. Chúng ta hãy cố gắng nhìn ra bàn tay hướng dẫn của Thiên Chúa yêu thương trong mọi việc đã đưa chúng ta đến nơi chúng ta đang có mặt hiện nay.
Thái độ vô ơn của chín người Do Thái được chữa lành, phải chăng cũng chính là thái độ của mỗi người chúng ta?
Rải rắc trên đường đời, chúng ta đã nhận lãnh biết bao nhiêu ơn lành của Chúa, từ những ơn làn phần xác, đến những ơn lành phần hồn, thế nhưng chúng ta cho rằng mình được quyền hưởng dùng những ơn lành ấy và chẳng bao giờ chúng ta nghĩ tới việc phải cảm tạ Ngài.
Khi gặp gian nan thử thách, chúng ta khẩn cầu cùng Chúa, chúng ta thú nhận những sai lỗi, những vấp phạm của mình và chúng ta hứa với Ngài điều nọ điều kia. Thế nhưng, khi tai qua nạn khỏi, chúng ta dường như không còn nhớ gì nữa và chẳng bao giờ biết cám ơn Ngài.
Nếu thái độ vô ơn của chín người Do Thái đã làm cho Chúa Giêsu phải buồn phiền, thì chắc chắn thái độ vô ơn của chúng ta cũng sẽ chẳng hơn gì. Làm sao chúng ta có thể kể ra cho hết những ơn lành Chúa đã ban, bởi vì tình thương của Ngài thì dạt dào như biển khơi, không bờ không bến.
Thân phận chúng ta chỉ là tro bụi, thế nhưng, Chúa đã dựng nên, đã trao tặng sự sống phần xác, đã chiếu dõi ánh sáng đức tin phần hồn và đã hứa ban niềm hạnh phúc vĩnh cửu làm sản nghiệp, vậy mà chúng ta lại không biết cảm tạ Ngài hay sao?
Lòng biết ơn là một bông hoa tươi xinh của tình bác ái. Trái lại, sự vô ơn chính là một phép lạ vĩ đại của ma quỉ. Tôi xin đưa ra một thí dụ.
Chẳng hạn sức khỏe là một điều quí giá mà không một quà tặng trần gian nào có thể đánh đổi được. Một ông tỷ phú, trong cơn hấp hối, dù có bỏ ra hằng triệu đô la cũng không thể nào mua về cho mình sự sống, bởi vì đó là một hồng ân của Chúa. Thế mà biết bao nhiêu lần chúng ta đã hoang phí cho những cuộc nhậu thâu đêm, cho những canh bài suốt sáng. Đáng lẽ chúng ta phải dùng cuộc sống để làm đẹp tâm hồn và nâng tâm hồn lên cùng Chúa mà cảm tạ Ngài, thì chúng ta lại sử dụng nó để làm nô lệ cho những đam mê dục vọng xấu xa, cho những ý đồ đen tối và bất chính…
Vì thế, thánh Bernađô đã nói:
- Sự vô ơn là một bức tường ngăn cách giữa Thiên Chúa và tạo vật, là một chiếc đập ngăn chặn nguồn suối với dòng sông.
Bởi đó, phải biết cảm tạ Chúa vì tâm tình biết ơn cũng chính là một lời kinh tuyệt vời chúng ta dâng lên Chúa, một cách không so đo, không tính toán.
Với những người biết ơn, chắc chắn Chúa sẽ ban cho họ những sự cần thiết, mặc dù họ không kêu xin. Vì biết ơn là một nhân đức đẹp đẽ nhất của người Kitô hữu. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, không phải chỉ trong những giờ phút may mắn và gặp được những sự tốt lành. Trái lại, chúng ta còn phải cảm tạ Chúa ngay cả trong những khi buồn phiền với những tai ương hoạn nạn xảy ra.
Có một chàng thanh niên, cha mẹ chẳng may bị giết chết trong một cuộc thảm sát. Tuy buồn, nhưng anh vẫn thầm thĩ kêu lên cùng Chúa:
- Lạy Chúa, con xin quì gối cảm tạ Chúa vì sự đau khổ con đang phải chịu cũng là một ơn huệ Chúa ban, để con biết chia sẻ với những khổ đau của Chúa.
Lòng biết ơn cũng chính là một dấu chỉ để phân biệt người đạo đức thật với kẻ đạo đức giả. Kẻ đạo đức giả thì trong những hoàn cảnh đen tối thường kêu trách Chúa. Còn người đạo đức thật, thì luôn khám phá ra bàn tay yêu thương của Chúa trong mọi tình huống, vì đối với họ: mọi sự đều là hồng ân.
Lời kinh cảm ta tuyệt vời nhất, theo tôi nghĩ, đó là lời kinh chúng ta thường hát trong thánh lễ:
- Chúng con cảm tạ Chúa vì vinh quang cao cả Chúa.
Hay như trong kinh tiền tụng, chúng ta vốn thường đọc:
- Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu rỗi cho chúng con.
Và sau cùng, ở mọi nơi và trong mọi lúc, hãy sống một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó bản thân chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân cho tình thương của Chúa và cuộc đời chúng sẽ trở thanh một hiến lễ tạ ơn dâng lên Chúa.
Một trong những tiếng được kể là đẹp nhất trong kho tàng ngôn ngữ con người, từ đông sang tây, từ bắc tới nam, tức là khắp mọi nơi. Một tiếng rất ngắn nhưng đưa đi rất xa, nếu chúng ta biết sử dụng nó một cách trọn vẹn, chân tình. Đó là tiếng “cám ơn”. Nhưng trong thực tế, dường như người ta còn quá dè dặt và tiết kiệm tỏ lòng biết ơn nhau và cám ơn nhau.
Bài Tin Mừng Chúa Giêsu lưu ý chúng ta về lỗ hổng trầm trọng ấy. Chúa đã làm phép lạ chữa lành cho cả mười người phong cùi. Thế là họ ra đi sung sướng, thỏa mãn, chỉ có một người nghĩ tới việc trở lại cám ơn Chúa. Chúa hỏi người ấy: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?” Chỉ là vì họ quên cám ơn. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta quên: cố tình quên hoặc vô tình quên như thế.
Có phải chúng ta vẫn thường coi việc người khác làm cho chúng ta hay phục vụ chúng ta như là những chuyện đương nhiên, những việc họ phải làm? Chẳng hạn khi có người lưu ý một ông giám đốc hay một ông chủ về sự tận tâm của người thừa hành hay người giúp việc, thì các vị này đã tỉnh bơ trả lời: “Họ đã được trả lương để làm việc ấy mà”. Người ta trả tiền công và tưởng thế là sòng phẳng.
Chúng ta nên suy nghĩ tới đức bác ái Kitô giáo, tới tình người được gói ghém trong tiếng “cám ơn”, dù khi đã trả tiền công. Thực vậy, có biết bao nhiêu chuyện mà người ta không thể thanh toán được bằng tiền bạc, nhưng bằng một nụ cười, một thoáng quan tâm, một tiếng cám ơn. Những người bán hoa đã viết một biểu ngữ trước quầy hàng của họ thế này: “Hãy diễn tả tâm tình của bạn bằng những bông hoa”. Cũng vậy, chúng ta phải diễn tả tâm tình của mình ra nhờ những cái gì khác hơn là tiền bạc, hoặc cả tiền “puộc boa”, tiền trà nước, đó là lời cám ơn. Có cả một nghệ thuật bày tỏ lòng tri ân mà chúng ta phải tập để biết sử dụng hợp thời, đúng lúc và tinh tế khéo léo.
Chúng ta phải biết cám ơn những người sống chung quanh mình, bắt đầu từ những người gần gũi nhất, đó là những người trong gia đình. Người ta nói: hạnh phúc của mái gia đình tùy thuộc một phần không nhỏ vào bổn phận nhớ ơn nhau. Cuộc sống của chúng ta được dệt thành bởi trăm ngàn điều nhỏ mọn chẳng đáng kể gì, thế mà hạnh phúc gia đình phần lớn lại lệ thuộc vào những điều chẳng đáng kể gì đó, là tiếng “cám ơn” bé nhỏ nói cho đúng lúc.
Thực vậy, hạnh phúc thay gia đình nào có những người con biết nói cám ơn người cha người mẹ vẫn tận tâm tận lực lo lắng cho chúng và suốt ngày tảo tần mưu ích cho chúng. Và cũng thật hạnh phúc cho gia đình nào người chồng biết nói cám ơn đối với người vợ và người vợ biết nói cám ơn đối với người chồng. Tiếng cám ơn người chồng nói với người vợ đáng giá hơn tất cả mọi thứ vật chất, vì nó chứng tỏ người chồng lưu ý tới những gì người vợ làm cho mình. Cũng vậy, tiếng cám ơn người vợ nói với người chồng sẽ động viên cho ông thêm nghị lực, thêm can đảm, thêm sức mạnh để hăng say với công việc đều đều cực nhọc vất vả hằng ngày.
Sau hết nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải biết cám ơn Thiên Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đang có, đang sử dụng: về ngôi nhà đang che chở chúng ta, cái bàn kia, cái giường ấy, chiếc tủ này, những quyển sách đó, cái đèn đang cháy sáng kia, những người bạn chúng ta gặp tình cờ trong cuộc sống, và hàng trăm hàng ngàn điều khác đang ở trong tầm tay chúng ta… Chính Thiên Chúa ban cho chúng ta những điều ấy xuyên qua những nguyên do phụ thuộc. Vì thế, chúng ta phải luôn dâng lên Thiên Chúa tâm tình cảm tạ tri ân như đối với nguyên nhân tối hậu, từ đó phát xuất ra mọi điều thiện hảo cho chúng ta.
Có một người cha trong gia đình đã ghi lại câu chuyện và những ý nghĩ sau đây: Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi nói: “Bố ơi, con sẽ đếm xem trên trời có bao nhiêu ngôi sao nhé”. Sau đó, tôi nghe giọng nói êm đềm của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4… Rồi tôi chăm chú vào việc đọc báo, không để ý đến tiếng con tôi đếm các ngôi sao nữa. Đến khi đọc xong bài báo, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng nó vẫn tiếp tục đếm 123, 124, 125…Đến đây nó bỗng ngừng lại, không đếm nữa, rồi quay sang nói với tôi: “Bố ơi, con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế”. Nghe con gái nhận xét như vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng âm thầm nói với Chúa: “Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành Chúa đã ban”, và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thường phải thốt lên như con gái tôi: “Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế”.
Hôm nay, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại thời gian đã qua, nghĩ lại quá khứ cuộc đời mình và gia đình mình: có phải chúng ta đã lãnh nhận được rất nhiều ơn lành của Chúa mà rất ít khi chúng ta để ý cám ơn Chúa và tri ân Ngài không? Đó là một thiếu sót lớn lao đấy. Cuộc đời chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa, từ mọi người thực là nhiều: từ một đồng bạc đến một sản nghiệp, từ một nụ cười đến một tình thương, từ một lời chào đến những lời an ủi, khích lệ, trao đổi, gặp gỡ… tất cả và bất cứ sự gì chúng ta lãnh nhận được đều là những viên gạch xây dựng đời chúng ta và gia đình chúng ta. Nên chúng ta phải luôn tạ ơn Chúa và cám ơn mọi người. Tạ ơn Chúa là chúng ta đem các ơn mình đã lãnh nhận được trình bày với Chúa, để rồi Chúa sẽ ban lại nhiều hơn, như người ta thường nói: “Một lần cám ơn là hai lần xin ơn”.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống trong tâm tình tạ ơn Chúa như thánh Phaolô đã khuyên bảo giáo dân Côlôsê: “Anh em hãy luôn sống trong tâm tình tạ ơn Chúa và biết ơn Chúa”. Đồng thời, chúng ta cũng phải luôn biết cám ơn mọi người, vì có thể nói, tất cả những người có liên hệ xa gần với chúng ta, đều là những ân nhân của chúng ta.
Nghe qua dụ ngôn ông phú hộ giàu có và Ladarô nghèo đói chúng ta dễ có cảm tưởng rằng hễ sung sướng ở đời này thì sẽ bất hạnh ở đời sau và ngược lại nếu khổ đau ở đời này thì sẽ hạnh phúc ở đời sau. Nhưng thực ra giáo huấn của Chúa Giêsu không phải là như vậy, bởi lẽ sang giàu không phải là một tội và đói khổ chưa hẳn là một bảo đảm đưa tới ân thưởng. Điều chúng ta cần lưu ý ở đây chính là sự cách biệt và phải khổ sở của người giàu có mà bất nhân trong dụ ngôn Chúa Giêsu đã đưa ra.
Ngài không nói tới việc nhờ đâu mà ông ta được giàu có nghĩa là không cần xét tới tính liêm chính của những điều kiện sung túc ông ta có được. Thái độ đáng trách của ông ta chính là lối sống xa cách đối với người nghèo đói bên cạnh mình. Ông ta quên rằng những của cải và tự do của ông ta luôn hàm chứa trách nhiệm đối với những người chung quanh. Và nó cũng là phương tiện giúp ông ta kiến tạo tình liên đới làm nên hạnh phúc thiên đàng. Ông ta tưởng đâu mình có thể sống hạnh phúc được mãi trong ích kỷ, trong tháp ngà của riêng mình. Và vì vậy chẳng cần gì phải quan tâm xây dựng mối liên hệ với người khác. Nào ngờ đâu, sự chết đến. Nó buộc ông ta phải bỏ lại sau lưng tất cả những điều kiệnđiều kiện sang giàu với những yến tiệc linh đình hằng ngày. Lúc ấy ông ta hoảng sợ vì thấy mình quá xa cách đối với người khác. Và sự xa cách đó đã khiến tông ta chới với, bất hạnh. Vực thẳm ngăn cách quá sâu rộng mà chính ông ta tạo nên do những vô tâm và ích kỷ khi còn sống, giờ đã làm cho ông ta vô phương vượt qua. Ước mong cậy nhờ kẻ mình đã khinh rẻ, bỏ rơi thật trơ trẽn làm sao. Mà cũng chẳng được nữa, dù là một giọt nước. Lời đáp của Abraham thật thấm thía. Nếu khi còn sống ông ta đã biết quan tâm chia sẻ những phúc lộc mình được hưởng cho Ladarô nghèo khó và cho những người chung quanh thì chắc chắn ông ta đã không phải đơn độc trong đau khổ nơi thế giới bên kia.
Theo một số nhà chú giải thì câu chuyện được kể trong dụ ngôn không hẳn là do Chúa Giêsu sáng tác, mà là một câu chuyện đã trở nên quen thuộc đối với quần chúng thời bấy giờ. Tựu chung bài học của dụ ngôn này vẫn còn mang tính thời sự đối với chúng ta hôm nay. Chung quanh chúng ta hiện giờ không thiếu những Ladarô nghèo túng. Có thể chúng ta không phải là những phú hộ với những khả năng, lắm của cải nhiều bạc tiền, nhưng chắc chắn bao giờ chúng ta cũng có một cái gì để chia sẻ. Và không thiếu cách để chúng ta ngày càng trở nên gần gũi và thân thiết đối với những người chung quanh là hiện thân của Chúa. Ước gì mỗi bước đường đời chúng ta đi là một bước tiến đến gần Chúa và gần nhau hơn trong yêu thương và hạnh phúc. [Mục Lục]
Cách đây mấy năm, một nguyệt san xuất bản tại Luân Đôn có yêu cầu độc giả đưa ra một định nghĩa về tiền bạc và cho biết độc giả nào đưa ra câu định nghĩa hay nhất sẽ được trọng thưởng. Toà soạn đã nhận được hàng ngàn câu định nghĩa khác nhau và đây là câu định nghĩa đã trúng giải nhất: Tiền bạc là giấy thông hành đại đồng, với nó chúng ta có thể đi bất cứ nơi đâu trên thế giới này ngoại trừ lên thiên đàng là không được. Với nó, chúng ta có thể mua sắm mọi sự, trừ hạnh phúc là không thể được.
Thật là một câu định nghĩa chí lý, nó diễn tả một sự thật mà chúng ta thường quên, hay biết mà giả điếc làm ngơ không muốn nghĩ tới và cũng không muốn nghe nói tới. Nó cũng giúp giải thích lý do tại sao người giàu tiền bạc và của cải vật chất lại khó được ơn cứu độ hay thường đánh mất đi ơn cứu độ của mình.
Từ câu định nghĩa trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta nhận thấy: Ladarô không phải vì nghèo mà được vào thiên đàng, còn ông phú hộ không phải vì giàu mà bị sa hoả ngục. Đúng thế, Ladarô được hạnh phúc chắc hẳn là vì anh đã không oán trách và mất đi niềm tin của mình vào Thiên Chúa, dù phải sống trong cảnh khốn cùng. Còn ông phú hộ đã đánh mất ơn cứu độ chỉ vì ông ta đã sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình và ăn chơi hưởng thụ đến độ không còn nhìn thấy hay giả bộ không nhìn thấy để khỏi phải trợ giúp cho Ladarô.
Và như thế tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa hoàn toàn khác xa với tư tưởng và đường lối của người đời, bởi vì người đời coi danh vọng, tiền bạc và thành công là bảo đảm của ơn cứu độ để rồi không cần và không trông đợi gì nơi Thiên Chúa nữa. Trong khi đó, đối với Thiên Chúa thì chỉ có người nghèo, người biết sống theo quan niệm của Ngài, người có được cái nhìn của Ngài mới là những cộng sự viên cần thiết mà thôi. Chỉ có người biết sống theo tình thần nghèo khó, nghĩa là luôn ý thức những hạn hép và bất toàn của mình, không tự cứu rỗi được, nên phải mở rộng cõi lòng đón nhận ơn Chúa, cậy dựa vào lòng thương xót của Ngài là được cứu rỗi.
Và trong ý nghĩa đó, người có nhiều tiền của cũng có thể là người nghèo và được cứu độ vì đã biết sống theo tinh thần của Chúa, liêm chính trong công ăn việc làm, quảng đại chia sẻ tiền bạc vật chất cũng như tinh thần cho anh em. Đồng thời kẻ không có một đồng xu dính túi cũng vẫn có thể là người giàu vì tâm hồn bất chính, ích kỷ và kiêu căng, cậy dựa vào sức riêng của mình không cần đến Chúa và ơn thánh của Ngài. Bởi đó hãy hoán cải ngay từ bây giờ bởi vì giây phút hiện tại mới thực là quan trọng, nó chính là thời điểm duy nhất chúng ta có thể sống như chúng ta muốn và xây dựng cho tương lai vĩnh cửu một cách hữu hiện nhất, vì ngày mai phải được bắt đầu từ ngày hôm nay. [Mục Lục]
Tại sao ông phú hộ lại bị trầm luân trong hoả ngục?
Câu trả lời thật đơn sơ: sở dĩ như vậy vì con tim ông đã trở thành chai đá. Mặc dù sống trên nhung lụa, ăn sang mặc quý, thế mà ông lại không hề biết ra tay giúp đỡ cho Lagiarô, là kẻ bần cùng, luôn ngồi trước cửa nhà ông, để trông mong một chút của bố thí dư thừa.
Xem thế, chúng ta thấy: tiền bạc cũng như vật chất là những ơn huệ Chúa tặng ban. Chúng ta được phép sử dụng trước hết là để bảo đảm một cuộc sống ấm no, xứng đáng với phẩm giá con người, cho chính bản thân, cũng như những người thân yêu. Thế nhưng ngoài mục đích đó ra chúng ta còn có bổn phận phải chia sẻ và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bần hàn túng thiếu, như người xưa đã bảo: Hữu lộc bất khả hưởng tận. Có tiền bạc không nên hưởng một mình. Chính những hành động bác ái yêu thương này sẽ có một giá trị vô song vì khi chúng ta thương giúp người khác là chúng ta thương giúp cho chính Chúa. Khi chúng ta làm phúc bố thì là chúng ta hành động một cách khôn ngoan, tạo cho mình một kho tàng ở đời sau.
Để giúp chúng ta hiểu điều đó, tôi xin kể lại một câu chuyện. Ý nghĩa của câu chuyện này, là hãy biết dùng tiền bạc vật chất để tạo cho mình những bè bạn, sẽ bênh vực và giúp đỡ chúng ta bước vào quê trời:
Ông chủ một thửa vườn chôm chôm nọ, sáng hôm ấy thấy hai em nhỏ đứng ngoài cổng, đưa mắt nhìn vào những trái chôm chôm chín đỏ mà thèm thuồng. Ông là một người yêu thích trẻ nhỏ, nên cho gọi hai em lại và bảo: Hai em cứ việc vô vườn mà ăn, nhưng không được đem trái nào đi. Trước khi hai em ấy về, ông đã khám qua các túi và hài lòng vì không thấy một trái chôm chôm nào. Nhưng sau đó ông lấy làm lạ vì thấy hai em cứ đi dọc theo hàng rào, rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống lượm một cái gì đó. Đoán được cái mẹo vặt của hai em, ông cho gọi hai em lại và vặn hỏi. Hai em đành phải thú nhận rằng mình có ném mấy quả ra ngoài hàng rào, để rồi sau đó sẽ lượm và đem về cho em. Ông chủ khen hai em đã hành động khôn ngoan và cho phép hai em được mang những quả chôm chôm ấy đi.
Hai em nhỏ là mỗi người chúng ta. Ông chủ là Thiên Chúa. Còn thửa vườn là thế gian, nơi chúng ta đang sống. Những trái chôm chôm là những sự tốt lành chúng ta có được, chẳng hạn như tiền bạc, cơm gạo, áo quần. Những sự tốt lành ấy chúng ta không thể đem theo khi giã từ cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta có một phương cách hành động, để ném vào đời sau những cái chúng ta đang có, đó là chúng ta hãy biết chia sẻ phần tiền bạc vật chất ấy cho những người nghèo khổ và giúp đỡ cho những người túng thiếu...
Điều này Chúa không cấm mà còn khuyến khích chúng ta nữa, bởi vì trong ngày phán xét Chúa sẽ nói với chúng ta: Khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn; khi Ta khát các ngươi đã cho uống; khi Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; khi ta đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm… Nếu hành động khôn ngoan như thế, chúng ta sẽ xứng đáng là những người con cái Chúa và chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa ân thưởng bội hậu. Bởi vì giúp đỡ người khác chính là cách thức chúng ta đầu tư cho cuộc sống mai sau. [Mục Lục]
Toàn cầu hóa đã giúp nhân loại phát triển tình liên đới. Nhân loại trở nên một cộng đồng sinh mệnh. Sự an nguy không còn của riêng ai mà là của tất cả mọi người. Cứu người chính là cứu mình. Vì một thảm họa nếu không sớm được ngăn chặn, sẽ mau chóng lan tràn khắp thế giới. Liên đới đang trở thành đức tính không thể thiếu được trong đời sống hiện tại. Nó không chỉ là một việc làm thiện nguyện mà còn là một nhiệm vụ cấp bách của mọi công dân trên hành tinh. Biết sống liên đới, nhân loại đang đi vào con đường Phúc Âm.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc đến tình liên đới. Phải liên đới vì mọi người đều là anh em với nhau. Phải liên đới vì đó là điều kiện vào Nước Trời.
Bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy điều đó. Có lẽ khi đọc bài dụ ngôn này, có nhiều người bất mãn tự hỏi: “Ông nhà giàu đâu có tội gì mà phải xuống hỏa ngục. Ông không gian tham, trộm cắp, bóc lột. Tiền của do công sức mồ hôi nước mắt ông làm ra, ông có quyền ăn xài chứ? Giàu có đâu phải là tội?”.
Vâng, giàu có đâu phải là một tội. Tuần trước Chúa Giêsu đã cho ta thấy giá trị tích cực của tiền bạc khi dạy ta hãy dùng tiền của mua lấy bạn hữu để họ đưa ta vào cuộc sống vĩnh cửu. Tiền bạc, nếu biết sử dụng, sẽ có giá trị tích cực. Nhưng nếu không biết sử dụng, sẽ trở thành nguy cơ.
Nguy cơ thứ nhất là: tiền bạc có thể mê hoặc tâm hồn.
Khi đó tiền bạc sẽ trở thành sợi dây trói buộc. Tâm hồn mê tiền bạc giống như con chim bị cột, không cất cánh bay cao, bay xa được. Đó là trường hợp chàng thanh niên đạo đức trong Phúc Âm. Anh đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được sống đời đời. Anh muốn vươn lên, muốn tiến bộ trên đường đức hạnh. Nhưng tiền bạc đã ngăn cản bước tiến của anh. Chúa Giêsu cất tiếng gọi anh. Nhưng tiền bạc đã trói buộc bước chân. Và anh bỏ cuộc quay về. Đành cam chịu với nếp sống tầm thường xưa cũ.
Nguy cơ thứ hai là: tiền bạc dễ làm cho trái tim thành xơ cứng, chai đá.
Người có nhiều tiền bạc dễ rơi vào tình trạng tự mãn. Tự mãn với những gì mình có, người giàu sẽ không cần tới ai khác và vì thế sẽ không chú ý đến những người chung quanh. Đó là trường hợp ông nhà giàu trong bài Phúc Âm hôm nay. Ông có nhà cao cửa rộng, mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Chỉ mải mê hưởng thụ, ông không có thời giờ nghĩ đến người khác. Ladarô nằm thoi thóp bên cửa nhà mà ông không nhìn thấy. Ladarô có rên rỉ vì đau đớn, đói khát ông cũng không nghe thấy. Tự mãn đã khiến trái tim ông khép chặt lại, biến ông thành vô cảm trước những đau khổ của tha nhân. Những mẩu bánh dư thừa, ông đâu có tiếc gì. Thế nhưng ông chẳng có thời giờ nghĩ đến Ladarô. Và người ta vất những mẩu bánh dư thừa vào thùng rác trong khi Ladarô mơ ước được những mẩu bánh dư ăn cho đỡ đói. Tự mãn đã biến ông nhà giàu thành ích kỷ, thiếu tình liên đới.
Nguy cơ lớn nhất mà tiền bạc có thể dẫn tới: đó là làm cho ta mất hạnh phúc đời đời.
Hạnh phúc trên Nước Trời là một cuộc sống hiệp thông trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Tình yêu của Chúa Ba Ngôi là một tình yêu dâng hiến trọn vẹn. Cho đi tất cả để nhận lãnh được tất cả. Những người ích kỷ không biết cho đi, không biết chia sẻ, không thể tham dự vào sự sống hiệp thông này. Vì thế, người ích kỷ là người tự chọn con đường xuống hỏa ngục. Kẻ khép cửa lòng trước nỗi khốn cùng của tha nhân, là người tự đào huyệt chôn mình. Người sống thiếu tình liên đới là người tự trục xuất mình ra khỏi Nước Trời.
Bây giờ thì chúng ta hiểu tại sao ông nhà giàu lại bị đày đọa trong hỏa ngục. Ông nhà giàu không có tội gì. Ông chỉ có tội thiếu sót: thiếu sót tình liên đới, thiếu sót sự chia sẻ. Trước đây ông đóng kín cửa để tự ngăn mình với Ladarô. Nay cánh cửa đó biến thành vực sâu thăm thẳm chia cắt hai người. Trước kia ông chỉ cần xoay nắm mở cửa là gặp được Ladarô. Nay ông không tài nào vượt qua được vực thẳm ngăn cách. Trước kia ông nghĩ sẽ không bao giờ cần tới Ladarô. Nay ông biết mình cần Ladarô cho mình một giọt nước thì đã trễ. Tình liên đới nếu không tạo lập ở thế gian, khi chết rồi sẽ không còn cơ hội nữa.
Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy ta biết: Ta sống trong cuộc đời không đơn lẻ, nhưng sống với người khác. Người ta không phải là những đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau. Trái lại vận mệnh chúng ta đan xen vào nhau. Vì thế trách nhiệm liên đới là không thể thiếu được. Do đó cần phải quan tâm đến những người chung quanh mình. Sự quan tâm này không phải tự nhiên có được, nhưng phải tập luyện hằng ngày. Phải rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh ngộ bất hạnh. Phải rèn luyện một trái tim quảng đại sẵn sàng chia sẻ với những anh em thiếu thốn.
Lạy Chúa, xin mở mắt con để con nhìn thấy Chúa trong những anh em sống chung quanh con. Xin mở tai con để con nghe được tiếng họ đang than van đau khổ. Xin mở trái tim con để con biết chia sẻ với mọi người những niềm vui, nỗi buồn của họ. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Tôi có quan tâm đến những người sống chung quanh tôi, đặc biệt những người nghèo khổ không?
2) Đời sống tôi cần đến người khác cả về phương diện tự nhiên lẫn phương diện siêu nhiên. Tôi có ý thức điều đó không?
3) Một đời sống quá đầy đủ có thể là nguy cơ cho đời sống thiêng liêng. Tôi làm cách nào để tránh rơi vào nguy cơ này?
4) Tại sao ông nhà giàu phải vào hỏa ngục? [Mục Lục]
Tội của lão phú hộ là tội gì? Xem ra, lão chẳng làm gì nên tội. Lão chẳng trộm cắp, cướp giật của ai; lão chẳng đánh đập hay chửi mắng La-da-rô…
Vậy tại sao lão lại sa vào chốn cực hình? Hay là vì lão quá giàu? Giàu đâu phải là tội!
Thật ra, lão phú hộ phải sa hoả ngục không phải vì lão giàu có, không phải vì lão đánh đập hay chửi mắng La-da-rô, mà chỉ vì lão là người vô cảm và ích kỷ, chỉ chăm lo bản thân mình mà không quan tâm đến người khác, chỉ biết thu tích cho riêng mình mà không biết chia sớt cho tha nhân. Tội của lão là tội ích kỷ và chính sự ích kỷ nầy là nguyên nhân khiến lão phải chịu đau thương khốn đốn trong chốn cực hình.
Quy luật của sự sống là có nhận có trao. Ngừng nhận và ngừng trao thì phải chết. Quy luật sống trong xã hội là mình sống cho mọi người và mọi người sống cho mình. Nếu ai đi ra ngoài quy luật đó là tự hại mình và chuốc lấy cái chết.
Trước hết, ta thử xem quy luật nầy được áp dụng trong phạm vi nhỏ là cơ thể. Để duy trì sự sống cho thân thể, tất cả mọi thành phần trong thân mình đều phải vận hành theo quy luật nhận và trao.
Quả tim sau khi đã nhận được máu thì liền bơm máu cho khắp châu thân, nhờ đó toàn thân được sống và lớn mạnh. Nếu có ngày nào quả tim tỏ ra “ích kỷ”, không chuyển máu nuôi toàn thân mà chỉ giữ lại cho riêng mình, thì đó là ngày tận cùng của nó và cũng là ngày hấp hối của toàn thân.
Hai lá phổi của chúng ta cũng thế. Phổi liên tục tiếp nhận dưỡng khí và liên tục trao ban. Ngày nào phổi “tham lam” cứ giữ khư khư số lượng dưỡng khí đã nhận được mà không chịu phát ban, đó là ngày tận số.
Nói chung, các cơ quan trong cơ thể muốn tồn tại và phát triển thì chúng phải tuân theo quy luật của sự sống là biết nhận và biết trao.
Trên bình diện rộng lớn hơn, mỗi cá nhân là một thành phần trong một thân thể lớn lao là nhân loại. Vì thế, nếu mỗi chúng ta không trao ban chia sớt những gì mình nhận được cho cộng đồng xã hội, thì số phận chúng ta như số phận của “quả tim ích kỷ”, của “lá phổi tham lam” đề cập trên đây. Có nhận, có trao là sống. Ngừng nhận, ngừng trao là chết.
Lão phú hộ trong Tin Mừng hôm nay chưa hiểu được lẽ đời, chưa hiểu được quy luật của sự sống là nhận và trao, nên lão chỉ biết nhận, biết tận hưởng một cách ích kỷ mà không biết sớt chia cho chàng La-da-rô khốn khổ bần cùng, do đó sau nầy lão phải lâm vào cảnh đau thương khốn đốn.
Trong cuộc đời nầy, chúng ta đã nhận được rất nhiều thứ do người khác cống hiến cho mình từ cơm ăn, áo mặc, nhà ở, xe đi, và rất nhiều sản phẩm, dịch vụ khác… Ngoài ra lại còn được đón nhận vô vàn ân huệ Thiên Chúa tuôn ban trong suốt cuộc đời… thì đến lượt mình, chúng ta cũng phải cống hiến, phải biết trao ban cho người khác. Có vay phải có trả, có nhận thì phải có trao. Người khác đã phục vụ mình thì mình cũng phải biết phục vụ người khác.
Không phải chờ đến khi trở thành tỷ phú hay trở nên giàu có như lão phú hộ trên đây, ta mới tính đến chuyện chia sớt của cải mình cho người khác; nhưng ngay hôm nay, chúng ta vẫn có bổn phận cống hiến cho người khác những ân huệ Chúa ban cho mình, như dùng thời gian, công sức, tài năng Chúa ban để phục vụ những người chung quanh, để góp công xây dựng xóm làng.
Nếu chúng ta chỉ khư khư giữ lấy những ân huệ ấy cho riêng mình mà không biết cống hiến chia sẻ cho nhau, thì có khác gì quả tim không bơm máu, khác gì buồng phổi không chuyển trao dưỡng khí, hay dạ dày không cung cấp dinh dưỡng… Làm như thế là chúng ta cũng đang đi vào vết xe của lão phú hộ, và chắc chắn mai sau sẽ cùng chịu chung số phận với lão mà thôi.
Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin Chúa khai mở lòng trí để chúng con hiểu được sự thật lớn lao là mỗi người là một chi thể trong thân thể lớn lao là nhân loại; vì thế, mọi người đều liên đới mật thiết với nhau như những cơ quan trong cùng một thân mình. Sự thật nầy sẽ giải thoát con người khỏi nếp sống ích kỷ, vô cảm vô tâm, nhưng sẽ thôi thúc mỗi người biết sống cho người khác, biết quan tâm xây dựng phúc lợi cộng đồng. Amen. [Mục Lục]
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Có một cậu bé thuộc dòng dõi quí tộc đang đi dạo với người giám hộ dọc theo một bờ ruộng, bên cạnh đó, một người tá điền đang cày ruộng cho cha cậu. Người tá điền cởi đôi ủng để trên bờ ruộng, cậu bé tinh nghịch muốn dấu đôi ủng ấy để chọc giận người nông dân, nhưng người giám hộ nói với cậu rằng: "Con chớ làm cho người tá điền nghèo khổ này buồn phiền, hãy làm cho ông ta vui lên thì tốt hơn. Ta khuyên con hãy bỏ tiền vào mỗi chiếc ủng, chúng ta sẽ núp ở đằng sau, và xem thử ông ta sẽ làm gì?"
Cậu bé đã làm như lời dạy của thầy mình. Chờ cho người nông dân không để ý, cậu đã mon men đến gần đôi ủng và bỏ vào mỗi chiếc một đồng bạc.
Một lát sau, người nông dân đã trở lại với đôi ủng của mình. Vừa khám phá ra tiền trong đó ông đã vội qùy xuống và ngước mắt lên trời để cảm tạ Chúa đã cứu giúp ông trong lúc túng cực. Ông cũng xin Chúa chúc lành và trả công cho vị ân nhân vô danh.
Nhìn được tất cả những gì người nông dân đã cầu nguyện, cậu bé cảm động muốn khóc. Đó là ngày đầu tiên cậu cảm thấy hạnh phúc nhất đời mình.
Vâng, có ai đó nói rằng: "Cho thì có phúc hơn nhận lãnh". Phúc đức được tích luỹ nhờ trao ban. Trao ban càng nhiều, phúc đức càng dầy. Thế nên, người có phúc là người biết cho đi. Người có phúc là người giầu lòng quảng đại, biết chia sẻ cho người cùng khốn. Cậu bé con nhà quyền quý một lần biết cho đi, cậu mới hiểu được đâu là hạnh phúc của sự trao ban. Cậu đang ở thế giới của những kẻ quyền qúy, những kẻ sống trong nhung lụa nên cậu đâu hiểu được cái khổ đau của cuộc đời "bán lưng cho trời" nơi giai cấp nông dân nghèo hèn. Cậu càng không cảm nghiệm được niềm vui khi kiếm được một đồng tiền ít ỏi do công khó mình làm ra. Có lẽ, lần đầu tiên cậu chiêm ngưỡng khuôn mặt rạng ngời của người nông dân khi nhận được đồng tiền bố thí. Lần đâu tiên cậu mới hiểu được giá trị của sự trao ban. Có trao ban mới có hạnh phúc. Có trao ban mới tích lũy được phúc đức cho đời này và đời sau. Và như thế, cuộc đời vô phúc là cuộc đời không có sự trao ban. Kẻ vô phúc thường ích kỷ tham lam. Kẻ vô phúc chỉ biết nghĩ cho mình và sống cho mình. Kẻ vô phúc không có cơ hội nhận lãnh niềm vui của sự trao ban. Kẻ vô phúc sống không có hậu, vì không biết tích lũy phúc đức cho cuộc đời bằng hành vi bác ái yêu thương.
Bài Phúc âm hôm nay nói về hai cảnh đời khác nhau. Người phú hộ và anh Lagiaro nghèo khó. Người phú hộ hạnh phúc đời này nhưng bất hạnh đời sau. Lagiaro nghèo khó thì ngược lại, anh phải chịu biết bao cay đắng trong cuộc đời ô trọc thiếu vắng tình người này, nhưng anh lại được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Cuộc đời của họ tuy cùng chung một thời gian và không gian, nhưng xem ra họ lại qúa cách biệt với nhau. Kẻ ăn không hết, người tìm không ra. Người sống trong nhung lụa, kẻ đói rách bần cùng. Bài phúc âm không đả phá về sự giầu sang, và cũng không khuyến khích sống nghèo đói. Bài Phúc âm chỉ nói đến trách nhiệm liên đới với anh em. Giầu có không phải là tội. Cái tội của người phú hộ là dửng dưng với mảnh đời bất hạnh của đồng loại. Phúc âm không nói đến việc ông xua đuổi người nghèo khó trước cửa nhà ông, nhưng chắc chắn ông phải đi qua cuộc đời của họ với thái độ bàng quang lạnh lùng. Người nghèo đói nằm ở trước cửa nhà ông, nhưng ông đã làm lơ khi đi ra đi vào. Ông đã không áy láy lương tâm và cũng không một chút chạnh lòng thương đối với bất hạnh của tha nhân. Tội của ông là sự dửng dưng, coi như không có sự hiện diện của Lazarô. Một sự mù quáng đến thiếu trách nhiệm liên đới với tha nhân. Ông có nhiều cơ hội để làm việc lành phúc đức, thế mà ông đã bỏ lỡ cơ hội mua lấy phúc đức đời sau.
Song le, Lagiarô không phải vì nghèo mà lên thiên đàng, điều quan yếu là anh không thất vọng về cuộc đời. Anh không oán trời oán đất. Anh vẫn bình thản với cuộc sống vốn dĩ đầy khó khăn đối với anh. Cho dù anh đã bị đẩy xuống đến tột cùng, làm bạn với những con chó, anh cũng vui lòng chấp nhận thân phận mình. Chính vì thái độ chấp nhận đó mà anh đã được đền bù xứng đáng, anh được giải thoát khỏi khổ đau đời này và an hưởng hạnh phúc đời đời trong hạnh phúc thiên đàng.
Người xưa có câu: "Phú nhân bất nhân - Bần bất nghĩa". Giầu có hay khinh người, và nghèo khó thiếu tử tế. Xem ra giầu nghèo đều khó mà vào nước thiên đàng nếu không biết vượt qua những trở ngại trong phận số đời mình. Vì thế mà cha ông ta đã từng khuyên con cháu mình "đói cho sạch rách cho thơm", và "không ai giầu có ba đời", thế nên cần phải biết sống có đức, để đề phòng khi sa cơ thất thế vẫn còn có nhiều người hỗ trợ và giúp đỡ mình.
Là người kytô hữu phải biết thể hiện đức ái trong đời sống hằng ngày của mình. Dù giầu hay nghèo mỗi người đều phải biết sống vì người khác, và cho người khác. Dù sang hay hèn vẫn phải toả lan đức ái trong cuộc sống của mình. Đức ái mà như thánh Phaolô tông đồ đã nói: "Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc. Đức ái tha thứ tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả". Đức ái sẽ giúp chúng ta sống tốt với anh em và đảm bảo cho hạnh phúc Nước Trời mai sau. Đức ái sẽ là nhịp cầu để ta đến với tha nhân và tiến vào bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Và như thế, ở đời sau, Chúa sẽ thưởng phạt chúng ta tùy theo mức độ thể hiện đức ái trong cuộc đời hôm nay. Amen. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thời gian vừa qua, một vụ kiện khiến dư luận vô cùng phẫn nộ là việc cụ Nguyễn Thi Th. (SN 1922, ở Tam Đảo, Vĩnh Phúc) bị chính người con trai cả đòi công nuôi dưỡng trong những ngày cụ ở nhà anh ta.
Cụ Th. từ khi chồng mất vào năm 1997 đã về sống cùng với người con trai cả là Đỗ Xuân Thuận. "Nói là ở cùng vậy nhưng tôi vẫn ăn riêng với gia đình con. Mọi việc trong sinh hoạt cá nhân, tôi đều tự làm lấy cả", cụ Th. nói.
Đến một ngày năm 2005, trong nhà xảy ra mâu thuẫn, bức xúc, ông Thuận quay sang cạn tình, cạn nghĩa làm đơn kiện cụ Th. ra tòa và đòi công nuôi dưỡng trong những ngày cụ Th. sống cùng với vợ chồng ông.
Tổng số tiền này là hơn 146 triệu đồng. Ông còn đòi tiền công trông nom nhà cửa, vườn tược của cha mẹ và bộ đỉnh đồng trị giá 4 triệu đồng mà cụ Th. đang dùng thờ cúng chồng và con trai út đã hy sinh.
Tuy nhiên, hành động bất hiếu đó của ông Thuận đã bị cả hai cấp xét xử huyện Tam Đảo bác đơn và bị dư luận lên án.
Có phải vì nghèo đói mà con người thành ra bỉ ổi đánh mất tình người? Có phải vì tiền mà con người trở thành kẻ ti tiện tiểu nhân? Có lẽ cái nghèo hay giầu sang không phải là nguyên nhân gây nên khổ đau mà tất cả đều bắt đầu từ khi tình người đã mất. Vì khi tình người đã cạn thì họ dễ dàng vô cảm và vô tâm với nhau. Đây là thảm kịch không chỉ xảy ra cho gia đình bà cụ Th ở Tam Đảo mà dường như cho rất nhiều gia đình quanh chúng ta.
Có biết bao gia đình cạn tình nên cũng cạn nghĩa với nhau, vợ chồng bỏ nhau, con cái ly tán. Có biết bao người đã vô cảm trước nỗi thống khổ của các thành viên trong gia đình nên vẫn vô tâm chơi bời, nghiện ngập, lười biếng thiếu trách nhiệm với gia đình. Có biết bao phận người vẫn cô đơn thất vọng ngay trong mái nhà của mình. Họ bị bỏ rơi, bị khinh khi ngay giữa những người thân của mình.
Có một bà mẹ đã tâm sự với tôi: cha biết không, chỉ vì nghèo đói mà con cái chẳng đứa nào về thăm bao giờ! Có một người chồng bại liệt đã than: con nằm đây như là một cái gai trong mắt vợ con, chẳng ai muốn chăm sóc con.
Ky-tô giáo là đạo của yêu thương. Người ky-tô hữu không thể vô cảm và càng không bao giờ được phép vô tâm trước nỗi thống khổ của tha nhân. Giầu sang – nghèo khó không quan trọng, điều quan yếu là biết sống tình liên đới sum họp với nhau. Đừng vì giầu có mà bỏ rơi đồng loại, và cũng đừng vì nghèo khó mà sống hèn hạ với tha nhân.
Thời Chúa Giê-su, có lẽ cũng không thiếu những loại người vô cảm trước nỗi thống khổ của tha nhân. Họ vô cảm đến nhẫn tâm bước qua một phận người lây lấy trên đường từ Giê-ru-sa-lem tới Giê-ri-cô. Họ có “rất nhiều của cải” nhưng lại không dám “bán những gì (họ) có mà cho người nghèo”. Sự vô cảm đó còn len lỏi đến cả những môn đệ của Chúa khi họ xin Chúa giải tán đám đông để tự đi mua thức ăn.
Có lẽ để đánh thức sự vô cảm nơi con người thời đại của mình, Chúa Giê-su đã dạy cho họ một bài học qua dụ ngôn: “ông nhà giàu và anh Lazaro nghèo khó” .Ông nhà giàu và anh Lazaro nghèo khó tuy “rất gần mà lại xa”! Họ rất gần nhau, gần đến nỗi chỉ cách “một cái cổng nhà”, thế nhưng lại rất xa, xa bởi chính “sự-vô-cảm” nơi ông nhà giầu.
Sự vô cảm đến độ hằng ngày ông vẫn ăn mặc lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình và để mặc cho anh Lazaro nghèo khó: “mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà của ông” sống lây lất từng ngày.
Thế nhưng, cuối câu chuyện là một sự đảo ngược lạ thường. Ông nhà giàu lại là kẻ mong Lazaro “đừng-vô-cảm” trước sự đau khổ của ông ta ! Trước kia Lazaro “thèm những thứ trên bàn ăn của ông rớt xuống mà ăn cho no”… Thì hôm nay ông “thèm” được Lazaro: “nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi ông cho mát, vì ở đây ông bị lửa thiêu đốt khổ lắm!”
Như vậy, sự giầu có không là tội mà sự vô cảm mới chính là nguyên do dẫn ông nhà giầu chịu cảnh đau khổ ở đời sau. Ông đã bỏ rơi đồng loại trong khi ông có khả năng giúp đỡ họ. Ông đã phớt lờ những mảnh đời bất hạnh bên cạnh sự giầu có xa xỉ của ông. Hậu quả là ông cũng bị mọi người lương thiện nhân ái bỏ rơi ông trước cửa Nước Trời.
Thiên Chúa tạo dựng con người có một trái tim để yêu thương, để cảm nhận nỗi thống khổ của tha nhân mà chạnh lòng thương xót. Đừng vô cảm trước phận đời bất hạnh. Đừng bàng quan trước nỗi đau của anh em. Ngày phán xét Chúa sẽ không hỏi chúng ta giầu có hay nghèo đói. Chúa cũng không hỏi chúng ta chức tước địa vị gì, mà Chúa sẽ hỏi về tình yêu liên đới của chúng ta với tha nhân. Chúng ta có bác ái với tha nhân hay không? Chúng ta có quá vô cảm đến vô tâm với anh em không?
Nguyện xin Chúa Giêsu luôn chạnh lòng thương xót mọi phận người, xin giúp chúng con luôn biết sống chia sẻ với những anh em nghèo khó. Xin đừng để chúng con vô cảm mà bàng quan trước những phận người khổ đau. Amen. [Mục Lục]
Truyện kể: Nhà Vua kia không có con nối dòng, đã niêm yết mời những bạn trẻ điền đơn dự xét để được nhận làm con nuôi trong hoàng tộc. Hai phẩm chất cần có là mến Chúa và yêu tha nhân. Có một cậu bé nhà nghèo muốn điền đơn, nhưng cậu không có thể, vì cậu ăn mặc rách rưới nghèo nàn. Được tin, cậu đã cố gắng làm việc chăm chỉ kiếm tiền mua bộ đồ mới và vội vã lên đường tìm dịp may để được nhận nuôi trong gia đình của vua. Tuy nhiên, đi dọc đường, khi gặp một người nghèo bên vệ đường đang chết lạnh. Anh bạn trẻ tỏ lòng cảm thương và tráo đổi bộ quần áo cho lão ăn xin. Thật khó khăn cho anh bạn trẻ này để được diện kiến nhà vua, vì bây giờ anh chỉ có bộ quần áo rách tả tơi. Vì đã đi được quãng xa, anh nghĩ phải cố gắng hoàn thành được hành trình. Khi anh tới dinh thự của nhà Vua, mặc dầu bị khinh rẻ và cười chê bởi các cận thần của vua. Cuối cùng anh được diện kiến Vua. Anh thật ngạc nhiên thấy vua chính là người ăn xin bên vệ đường và đang mặc bộ quần áo mà anh đã tặng cho ông. Nhà Vua bước xuống khỏi ngai vàng, ôm lấy anh bạn trẻ và nói: Chào đón, hỡi con của ta.
Sự giầu sang phú túc là ân phúc Chúa ban. Người sang giầu hay nghèo hèn cũng chẳng khác gì nhau về sứ mệnh. Người giầu có nỗi khổ của người giầu, kẻ nghèo có nỗi đau của kẻ nghèo. Cách thế tìm kiếm và sử dụng của cải đời này mới là điều quan trọng. Người đời thường chúc nhau làm ăn được phát tài phát đạt, của cải đầy dư, an cư lạc nghiệp và gia đình hạnh phúc. Của cải sinh lợi là dấu hiệu được chúc phúc. Giầu có không phải là cái tội, cái tội do tâm ý con người. Tiên tri Amos đã lên tiếng cảnh cáo những người giầu sang phú quí tự kiêu đã hoang phí tài sản: Đây Chúa toàn năng phán: "Khốn cho các ngươi là những kẻ phú quý ở Sion và tự kiêu trên núi Samaria”(Am 6, 1a). Những người giầu có hay lạm dụng quyền thế để chèn ép những người bé nhỏ thấp kém. Chúng ta nhận biết Thiên Chúa luôn đứng về phía những người nghèo bị đối xử bất công.
Người giầu được hưởng thụ mọi sự sung sướng trên đời. Một số người giầu còn dung dưỡng xác thịt thỏa mãn mọi nhu cầu đòi hỏi của bản năng. Họ được hưởng nếm mọi của ngon vật lạ. Sự thụ hưởng qúa độ sẽ làm cho thân xác ươn lười, tinh thần yếu đuối và con người hư hỏng. Amos vạch trần những thói đời xa hoa: Các ngươi đã nằm ngủ trên giường ngà, mê đắm trên ghế dài: ăn chiên con trong đoàn và bê béo trong đàn (Am 6, 4). Chúng ta biết rằng không phải ăn nhiều, uống nhiều và hưởng thụ nhiều là hạnh phúc. Bất cứ cái gì cũng có cái giá phải trả. Ăn nhiều sẽ béo phì, uống quá độ sẽ xay sưa và hưởng thụ nhiều sẽ gây bệnh hoạn yếu liệt. Thật vậy, chẳng béo bở gì khi ngày nào cũng có yến tiệc linh đình. Tuy nhiên, đôi khi chúng ta cũng cần có những bữa tiệc vui, những món ngon và rượu nồng để vui thỏa lòng người.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn ông Phú hộ giầu có và người hành khất Ladarô nghèo đói để giúp chúng ta suy nghĩ về cách đối xử với đồng loại. Ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, còn Ladarô bệnh hoạn đói khổ ngồi cạnh cổng và chẳng ai đoái hoài. Một người thì sung sướng, tiệc tùng vui vẻ và hưởng phước cuộc đời. Một người cô thân cô thế, không nơi cậy dựa và chịu thiệt thòi khổ đau. Khi mãn cuộc đời dương thế, mỗi người đi theo một hướng. Kẻ được chúc phúc, người bị luận phạt. Vậy cuộc sống của người giầu và người nghèo có liên đới với nhau. Không ai có thể nói rằng tôi chỉ có nhiệm vụ lo cho chính tôi và người hàng xóm thì mặc kệ họ. Không phải thế, chúng ta sống là sống cùng, sống với và sống hỗ tương nhau. Cùng giúp nhau hoàn thành sứ mệnh của đời người.
Nhìn xem gương của người phú hộ, dụ ngôn không nói về cách thế làm giầu của ông. Cũng không nói ông phạm tội ức hiếp, khinh bỉ người nghèo hay làm thiệt hại ai điều gì. Ông xây tường cao vui hưởng cuộc sống trong sang giầu cho riêng mình. Có một điều là ông thiếu trách nhiệm với người hàng xóm. Mắt ông không nhìn thấy được sự khổ đau của người khác. Tâm ông không cảm được nỗi cô đơn sầu khổ của người bên cạnh. Ông đã không đoái hoài đến số phận đen đủi hẩm hiu của tha nhân. Kết qủa của cuộc đời, khi phải đối diện với sư thật: Abraham nói lại: 'Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ (Lc 16, 25). Phần thưởng không nằm ở sự giầu sang hay nghèo hèn, mà là thái độ đối với tiền của và trái tim biết cảm thông chia sẻ với tha nhân.
Sự giầu có tiền bạc của cải có thể làm chúng ta bị mù lòa. Khi giầu có, chúng ta dễ quên mất sự nghèo khổ. Khi chúng ta đi ngang qua người ăn xin, tại sao chúng ta thường ngó sang hướng khác? Có lẽ vì chúng ta sợ tiếng nói của lương tâm làm phiền. Chúng ta giả vờ như không nhìn thấy họ. Thường thì người nghèo không van xin, nhưng họ có đôi mắt với cái nhìn rất tha thiết. Có khi người ăn xin giơ tay van nài và chúng ta phải rất tôn trọng khi bố thí. Đừng quăng ném tiền cắc vào cóng long của người ăn xin như là vất bỏ một vật gì. Thái độ cho đi quan trọng hơn qùa được cho. Có lần mẹ Terêxa đã nói: Bệnh ghê tởm nhất của thế giới hôm nay là cảm thấy bị bỏ rơi và sự dữ lớn nhất trong thế giới là thiếu vắng tình yêu và tỏ ra dửng dưng với những nhu cầu cần thiếu của tha nhân.
Chúng ta không cần đợi người chết hiện về để nói với chúng ta cách thế sống đạo. Lời Chúa dạy quá đủ để chúng ta học hỏi và thi hành. Ông phú hộ xin Abraham cho người đã chết về loan tin. Abraham đáp rằng: 'Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các ngài'. (Lc 16, 29). Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần rằng dù chỉ một bát nước, chúng ta làm cho người nghèo vì danh Chúa, chúng ta sẽ không mất phần thưởng. Đôi khi chúng ta dửng dưng và nghĩ rằng dụ ngôn Chúa nói là để dành cho những người giầu sang phú quí. Còn chúng ta là những người nghèo, người lao động đầu tắt mặt tối và còn đang hưởng tiền trợ cấp của chính phủ, lấy đâu ra mà giúp đỡ người này người kia chứ. Biết rằng chúng ta không giầu có về tiền tài của cải, chúng ta vẫn có cái để chia sẻ mà. Chúng ta có một trái tim đấy ắp tình thương. Chia sẻ sự cảm thông, sự hiểu biết và tình người còn quan trọng hơn. Một nụ cười, một lời nói nhẹ nhàng, một thái độ khoan dung và sự cảm mến cũng đủ nguôi lòng người đang trong cơn sầu khổ.
Mang danh là Kitô hữu, chúng ta là mộn đệ của Chúa Giêsu. Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: Hỡi người của Thiên Chúa, hãy theo đuổi đức công chính, lòng đạo hạnh, đức tin, đức ái, đức nhẫn nại, đức hiền lành (1Tm 6, 11). Các nhân đức là những bông hoa thơm hương tô điểm cho đời sống đức tin. Các đức tính tốt làm cho đời sống đạo được trổ sinh hoa trái. Đức ái là cao trọng vì đức ái sẽ mở cửa tâm hồn giúp chúng ta đến với tha nhân. Tha nhân giúp chúng ta tiến tới trên con đường trọn lành. Không phải những người giầu có đưa chúng ta tới cửa thiên đàng, nhưng nhờ chính những người bé nhỏ, thấp kém, nghèo hèn và khổ đau. Họ là những ân nhân quí báu nhất của chúng ta trong cuộc hành trần thế này.
Bước vào cuộc đua, chúng ta không thể bỏ cuộc. Phải chiến đấu anh dũng cho đến cùng đường. Đừng khi nào nản chí về việc bác ái giúp người. Bao lâu Thiên Chúa còn ban ân huệ cho chúng ta, bấy lâu chúng ta còn có cơ hội chia sẻ khả năng, thời giờ và của cải của chúng ta với người chung quanh. Người nghèo là hiện thân của Chúa Giêsu giữa dòng đời. Chúng ta đừng khinh rể họ, vì họ đang được chia sẻ sự nghèo hèn thiếu thốn của Chúa Kitô. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: Con hãy chiến đấu trong cuộc chiến đấu chính nghĩa của đức tin. Hãy cố đoạt lấy sự sống đời đời mà con đã được kêu gọi tới và cũng vì đó, con đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin trước mặt nhiều nhân chứng (1Tm 6, 12).
Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con quá nhiều hồng ân. Nhiều khi chúng con cứ khư khư giữ lại làm giầu cho chính mình mà quên những nhu cầu cần thiết của anh chị em chung quanh. Xin cho con biết mở mắt, mở tai và mở rộng tâm hồn để cùng chia sẻ niềm vui với mọi người. [Mục Lục]
Tin mừng Chúa Nhật 26 Thường Niên C là dụ ngôn về người giàu có và ông Lazarô nghèo khó. Tin mừng gồm hai phần: phần thứ nhất nói về số phận của con người sau khi chết (c. 19-26); phần thứ hai là cuộc đối thoại của Abraham và người giàu có. Trong phần thứ nhất, số phận của người giàu có cả một đời được sung sướng "vận toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình", bên cạnh một Lazarô "mình đầy ghẻ chốc" đã bị đảo lộn sau khi chết. "Trong hỏa ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đàng xa có Abraham và Lazarô trong lòng ngài". Người giàu có ích kỷ là hình ảnh người không lắng nghe lời giáo huấn của Thiên Chúa. Họ "lòng chai dạ đá", không quan tâm đến những bất hạnh của người khác. Trong phần thứ hai, cuộc đối thoại cho thấy con người phải tự nguyện và tự do để hoán cải, chứ không cần đến bất cứ một áp lực nào từ bên ngoài. Hơn nữa, Thiên Chúa đã dự liệu những phương tiện cần thiết để con người có thể hoán cải.
Dụ ngôn này không có ý an ủi những người nghèo khó: "Anh em là những người nghèo ở đời này, hãy can đảm lên, một ngày kia anh em sẽ được lên trời và anh em sẽ được đền bù những khốn khó đời này như Lazarô". Thật vậy, bài Tin mừng hôm nay không chỉ khích lệ người nghèo khổ hãy cam chịu nghèo khổ hiện tại để được hưởng hạnh phúc đời sau. Chỉ vì lý do nghèo khó vật chất thôi vẫn chưa đủ, cần có nghèo khó tâm hồn "phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó" (Mt 5).
Dụ ngôn này cũng không chỉ nói đến cuộc sống bị đảo lộn sau cái chết của hai nhân vật chính: người giàu và người nghèo, nhưng còn nói đến số phận của con người tùy thuộc vào cách sống, cách cư xử với người khác ngay tại trần thế này. Đúng hơn, chỉ có một nhân vật chính là người giàu. Người nghèo Lazarô đã chẳng nói một lời nào từ đầu đến cuối. Cuộc đối thoại giữa Abraham và người giàu cho thấy số phận bi đát của người giàu, nếu họ không chịu hoán cải. Hoán cải ở đây tức là quan tâm và giúp đỡ người nghèo. Đóng cửa lòng mình lại trước những khốn khó của những người chung quanh là một tội lớn. "Khi tôi nghèo, các anh đã không cho ăn, không cho quần áo mặc, không thăm viếng, không giúp đỡ tôi" (Mt 25,41-46).
Hình ảnh Lazarô trong câu chuyện là một hình ảnh đẹp. Ông là một người nghèo hoàn toàn. Ông cần người giàu giúp đỡ. Nhưng, cũng cần phải nói thêm: người giàu cũng cần người nghèo "giúp đỡ". Lazarô có thể "giúp đỡ" người giàu thoát khỏi tính ích kỷ của mình. Mở rộng tấm lòng, có được một tình yêu vô vị lợi. Thật vậy, con người "quên mình là lúc gặp lại bản thân" (thánh Phanxicô Assissi), cho đi là nhận được. Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu, Đấng đã tự hiến thân mình cho nhân loại. Thiên Chúa mời gọi con người hoàn thành đời mình theo hình ảnh Thiên Chúa. Bao lâu con người còn ích kỷ, còn đóng cửa lòng mình lại trước những người nghèo khổ, bấy lâu con người vẫn chỉ là một nhân loại "thui chột", không theo hình ảnh Thiên Chúa.
Cho người nghèo khổ một chỗ đứng trong cuộc đời chúng ta, quan tâm đến họ là một cách thế làm cho đời mình trở nên "giàu có" trước mặt Thiên Chúa. "Mến Chúa yêu người" vẫn mãi là luật vàng Kitô giáo.
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con đầy lòng ưu ái,
đầy tình thương cảm đối với tha nhân,
khởi đầu với những người gần chúng con nhất.
Xin dạy chúng con biết chia sẻ nỗi đau khổ
của những người gặp buồn phiền,
biết đỡ gánh nặng của họ,
nhờ vậy mà chúng con được gần gũi với Chúa.
Lạy Chúa,
xin dạy chúng con biết nhìn thấy những người đang đau khổ.
Chúa đang khóc với những giọt nước mắt của họ.
Biết bao tiếng nức nở đã trôi dạt vào đại dương của tình thương.
Xin dạy chúng con biết canh phòng
bên ngưỡng cửa đưa vào lãnh địa mênh mông của khổ đau. Amen. [Mục Lục]
Chúa thương người giàu
Tôi không bênh vực cho những người giàu có, nhưng thiết nghĩ, trong Tin Mừng theo Thánh Luca 16,19-31 hôm nay, Chúa Giêsu không lên án người phú hộ, nhưng lên án lòng ích kỷ, không bác ái, không thương người của người phú hộ. Ngài có thương những người giàu có đấy chứ. Vì thương, Ngài mới dùng dụ ngôn để cảnh cáo họ, để dạy họ cách sống bác ái để được sống đời đời trong lòng tổ phụ Abraham, theo cách người Do Thái thường suy nghĩ.
Tiên tri Amos cũng đã từng được Thiên Chúa sai đến miền Bắc nước Do Thái, lên tiếng cảnh cáo một xã hội phân hóa trầm trọng giữa giàu và nghèo, mà những người giàu có toa rập với những người có chức có quyền “đang nằm trên giường ngà, thõng thượt trên sạp gụ” “ăn chiên cừu bê để sẵn, nghêu ngao theo cung điệu Davit, uống rượu tô, xức dầu thượng hạng thơm nức”. (Am 6,4-6). Họ đang sống cảnh phong lưu sa đọa mà như một thứ tôn giáo trá hình, thứ tôn giáo mượn danh nghĩa ích nước lợi dân để thu quén bao thành quả của dân nghèo vào tay những ông to ông lớn và ông tư sản. Cái cho đi của họ là một thứ đạo bác ái cho dân nước theo kiểu “hòn đất ném đi hòn chì ném lại”, hoặc “thả con tép bắt con tôm”. Thực ra, Tiên tri Amos trách họ chẳng màng đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc, của đồng bào nhân dân. Họ chỉ biết tiệc tùng say xỉn “chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ” (Am 6,6). Lời cảnh cáo của Amos thật nặng nề dành cho những kẻ giàu có và quyền chức ăn chơi “Chúng sẽ bị lưu đày, đi đầu những kẻ lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phe phởn”.Lời cảnh cáo của Tiên tri Amos, như vẫn còn nghe đâu đây trong thế giới hôm nay:“ngàn năm mây trắng vẫn bay, mấy ngài lãnh đạo có ngày lãnh đao”. Người giàu có hôm nay cũng giống như thời tiên tri Amos, tập trung hầu hết vào những người có chức có quyền. Bởi vậy ngàn xưa đã có câu: “nhất thế, nhì thân, tam cần, tứ đức”. Giàu nhờ cậy quyền cậy thế nhiều hơn giàu nhờ đức.
Nhưng, dù thế nào đi nữa, thì tôi vẫn cho rằng, đây là những lời tình từ lòng yêu thương của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa không muốn mất đi một con người nào. Thiên Chúa muốn con người làm giàu cách chân chính, vì những cách làm giàu bất lương, giàu trên xương máu, mồ hôi của kẻ khốn cùng là thứ giàu có tội lỗi, là con đường dẫn đến diệt vong. Người làm giàu chân chính thì cảm thông với người cùng khổ. Còn người làm giàu bất lương, thì tự họ đã bất lương trước khi làm giàu. Nói như Thánh Nicolas: “họ có thể đốt nhà bạn để luộc cho mình một quả trứng”, cũng vậy, “họ có thể hy sinh một dân tộc, miễn là họ được an thân”. Chúa yêu cầu người giàu thay đổi cách sống: bỏ đi tính ích kỷ nhỏ nhoi, hướng đến tha nhân với tương quan đồng vị, cùng sống với cuộc sống của tha nhân trong bất cứ tình huống nào.
Quả vậy, trong dụ ngôn Tin Mừng, không lẽ người giàu “lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc”, có mắt mà không thấy “Lazaro nghèo khó,mụn nhọt đầy mình nằm trước cổng nhà ông” ấy sao? Con chó nhà ông còn trông thấy chạy đến liếm ghẻ chốc cho anh ta kia mà! Quả thực người giàu có có thấy, nhưng không động lòng trắc ẩn, vì ông không có lòng trắc ẩn để động. Người nghèo không “khóc than kêu cứu” hay “làm đơn xin” gì cả, nhưng anh ta chỉ nằm đó thôi, đã đủ là một lời xin thống thiết; anh ta cũng không gõ cửa hay kêu gào, nhưng người giàu nếu giàu lòng quảng đại bác ái, giàu lòng trắc ẩn thì đã thấy cảnh tượng thương tâm, đã nghe tiếng gõ nhức nhối tận thâm sâu cõi lòng.
Vậy tôi có thể kính thưa với những người giàu có hôm nay rằng: Chúa không bỏ các bạn đâu, Chúa muốn các bạn làm giàu chân chính. Chúa không kết án các bạn đâu, nhưng qua lời Tiên tri Amos và dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, Chúa đang cho các bạn một cơ hội để mở mắt nhìn những bạn hữu nghèo khó của Thiên Chúa, để mở tai nghe nỗi đau của họ đang kêu gào mà nghẹn ngào không thành tiếng, để mở lòng đón nhận họ như đón nhận chính Đức Kitô, để mở bàn tay ra mà chia sẻ cho họ một cuộc sống đồng nhân vị ở đời nầy, để chính họ sẽ chia cho bạn một chỗ trong lòng tổ phụ Abraham và trong lòng Thiên Chúa mai sau.
Chúa cứu người nghèo
Với những người nghèo, nghe đoạn Tin Mừng hôm nay, những người nghèo khổ túng thiếu trong cuộc đời, những cái bang, hiệp khách ăn mày, những người ở đất nước nghèo đội sổ như chúng tôi, thường phấn khởi lắm- phấn khởi vì được Chúa ủi an, nhưng cũng không thiếu cái phấn khởi do tâm lý thỏa mãn lòng ganh ghét bấy lâu nay với những người giàu có, quyền lực. Vì thế, tôi nghĩ trong dụ ngôn nầy, không chỉ những người giàu, mà cả những người nghèo cũng cần phải cảnh giác. Vì điểm chính của Lời Chúa dạy, không phải là giàu hay nghèo, mà là biết chia sẻ hay không biết chia sẻ, quảng đại hay ích kỷ, bác ái vị tha hay hà tiện vị kỷ.
Cái thói quen trả thù của người nghèo cơm áo gạo tiền, nghèo chữ nghĩa “thấy ai hoạn nạn thì vui mừng”, nhất là những người giàu có, quyền thế, thiếu đạo đức gặp hoạn nạn thì càng mừng hơn- cho là “ông trời có mắt”, “lưới trời lồng lộng” hoặc “Chúa phạt nhãn tiền” là không hợp với tinh thần bác ái Kitô Giáo. Hơn nữa, dụ ngôn Người Phú Hộ và Lazaro nghèo khó hôm nay, rất dễ đẩy chúng ta vào một xu hướng lạc đề: “chấp nhận cảnh nghèo khổ túng thiếu ở đời nầy để được hạnh phúc ở đời sau”, mà quên một điều quan trọng là: “chính trong cảnh nghèo khổ túng thiếu ấy, chúng ta cũng có bổn phận phải chia sẻ cho nhau”. Không đợi người giàu thực thi đức bác ái, mà chính người nghèo phải giúp đỡ người nghèo, người khuyết tật giúp cho người khuyết tật, người tù lo cho người tù, người ổ chuột thương người ổ chuột… như thế mới là đúng tinh thần dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Người giàu có, có cách chia sẻ của người giàu có, người nghèo khổ cũng có cách giúp đỡ chia sẻ cho nhau; miễn là có một tấm lòng nghĩ đến tha nhân. Một điểm tâm lý khôi hài nữa là: ai cũng nghĩ mình nghèo, không thể giúp đỡ người khác. Họ chỉ có thể giúp đỡ tha nhân khi họ cảm thấy họ dư thừa. Đối với Chúa thì không phải như thế: đồng bạc cuối cùng của bà góa là đồng bạc giá trị. Vì bà đã cho đi chính sự sống còn của bà, và giao phó sự sống còn của bà cho Thiên Chúa. Vì những suy tư trên đây, tôi nghĩ, chúng ta nên sợ cảnh “nghèo lòng bác ái”, vì nghèo lòng bác ái cũng đồng nghĩa với nghèo ba nhân đức quan trọng “Tin Cậy Mến”.
Từ “Lazaro” tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa cứu giúp”. Nhân vật Lazaro là nhân vật hư cấu trong dụ ngôn, đại diện cho những người nghèo khổ, túng thiếu. Nhưng, qua hình ảnh Lazaro, không nên lầm tưởng rằng người nghèo được vui mừng hả dạ vì mấy người giàu “khó vào nước trời” hoặc bị phạt xuống hỏa ngục đời đời.. Ngược lại, là những người nghèo, hãy tạ ơn Chúa cho chúng ta sống trong cảnh nghèo khổ khốn khó, có cơ hội dễ cảm thông và sẻ chia với những người nghèo khổ khốn khó, có cơ hội nhận ra chính chúng ta và những con người nầy là Bạn Hữu Của Thiên Chúa. Hãy chia sẻ với các bạn của Chúa, như Đức Kitô đã chia sẻ đến tận cùng cuộc sống mình. Và khi không còn gì để chia sẻ, chúng ta sẽ là một Lazaro được “Thiên Chúa cứu giúp”, được ngồi gần các tổ phụ, giữa lòng Abraham và trong cung lòng của Thiên Chúa. “Thiên Chúa cứu giúp người nghèo”- không phải những người nghèo vì họ nghèo- nhưng là những người nghèo vì họ đã cho đi tất cả những gì mình có. Những người cho đi tất cả là Bạn Hữu của Thiên Chúa, được “Chúa thương cứu giúp”, được Thiên Chúa đền bù xứng đáng trong Nước Vinh Hiển của Người. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn nầy có thể chia thành ba phần: - Cuộc sống của người giàu có và Lazarô trên trần gian (16,19-21); - Số phận của hai người sau khi chết (16,22-23); - Tình trạng cực hình của người giàu có (16,24-31). Ngoài việc chia sẻ chủ đề chung về việc sử dụng của cải, đoạn nầy bàn thêm về hậu quả của việc sử dụng ấy khi cuộc đời nầy qua đi. Số phận của người giàu có và Lazarô đảo ngược trong cuộc đời bên kia. Luca nhấn mạnh rất nhiều về việc Thiên Chúa đảo ngược số phận giữa người khiêm hạ và người quyền thế (1,46-55), giữa các Phúc Thật và Chúc Dữ (6,20-26), và ở đây giữa người giàu và người nghèo (16,19-31).
Cuộc sống của người giàu có và Lazarô trên trần gian
Trong hai câu dẫn nhập Luca mô tả hai con người với hai cuộc sống hoàn toàn tương phản nhau: một người giàu có (c. 19.21) và Lazarô nghèo khó (c. 20). Sự giàu có của người nầy được mô tả qua cách ăn mặc: áo đỏ tía, porphyra, chỉ dành cho vua (x. Mc 15:17.20; Kh 18:12) và hàng mịn, byssos. Cả hai thứ nầy được kể là những đồ quí giá chung với vàng bạc, đá quý và ngọc ngà (Kh 18:12). Động từ “mang” ở thì quá khứ chưa hoàn thành cho thấy ông thường ngày mang áo quần nầy, chứ không phải chỉ một dịp lễ lạc trọng thể nào đó. Việc ông “làm yến tiệc”, euphrain#, cũng kiên tục, và việc nầy nhắc đến thái độ tự hài lòng của người giàu có trên của cải ông đã kiếm được, ăn uống, hưởng thụ và chỉ dừng lại ở đó (12:19).
Tương phản với người giàu có là người nghèo Lazarô. Khi Luca dùng cách nói “tên là” (1:5.13.26.27.31…), ông muốn ám chỉ đó là người được ưu ái trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, tên “Lazarô” có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Sự nghèo khốn của Lazarô được diễn tả qua tình cảnh bệnh tật của ông: nằm liệt do bệnh, ball#, và nhức nhối (c. 20) do những vết thương lở loét của ông (c. 21). Đến lúc nầy, dụ ngôn không nêu lên một lỗi phạm nào của người giàu có. Chỉ trong câu 21, tình cảnh của Lazarô được mô tả thêm và sai lỗi của người giàu có mới được hình dung ra. Lazarô nằm ở trước cửa nhà người giàu có: đói lả và muốn được ăn no như tình cảnh của người con hoang đàng (15:16). Động từ “ước muốn” nầy ở thể phân từ hiện tại diễn tả tình trạng kéo dài. Như thế, Lazarô ở đó mỗi ngày và chờ đợi những mẩu bánh vụn từ trên bàn rơi xuống. “Cái bàn” gợi lên yến tiệc của người giàu có; qua đó, cho thấy người giàu có không nghĩ gì khác ngoài việc hưởng thụ cuộc sống giàu có của ông. Ông chỉ sống cho mình và không biết đến Lazarô nghèo khó trước cửa nhà ông. Bởi lỗi phạm đó mà ông sẽ chịu hậu quả sau nầy.
Số phận của hai người sau khi chết (16:22-26)
Đoạn nầy và đoạn kế tiếp (16:27-31) được trình bày dưới hình thức đối thoại giữa người giàu có và Abraham. Những gì được nói đến trong hai đoạn nầy không nhằm mô tả cuộc sống sau khi chết, mà sự khác biệt tận căn và sự đảo ngược giữa cuộc sống của người giàu có và Lazarô. Câu 22 là câu chuyển tiếp: người giàu có cũng như người nghèo khó đều chết như nhau (c. 22), nhưng số phận họ lại khác nhau. Lazarô được các thiên thần đem vào lòng Abraham; trong khi người giàu có “được chôn cất”. Abraham, tổ phụ của dân Do thái (1:55.73; 3:8). “Lòng Abraham” là phần trước ngực. Ngồi vào lòng ai có nghĩa là nằm dựa đầu vào ngực người ấy. Đây là vị trí cận kề và thân thiết (x. Gio 1:18; 13:23). Hình ảnh nầy gợi lên bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa, trong đó có Abraham và tất cả các tổ phụ khác và các tiên tri (13:28). Như thế, Lazarô nghèo khó và thiếu thốn của ăn nuôi sống trên trần gian, nay được thông hiệp với Abraham. Và Thiên Chúa của Abraham là Thiên Chúa của sự sống (20:37-38). Trong khi đó, người giàu có “được chôn cất”, ám chỉ ông nằm giữa những kẻ chết (x. 9:59-60). Điều nầy được xác định rõ hơn trong cách nói “trong âm phủ” (c. 23). “âm phủ” là giang sơn của người chết và nơi của sự hủy diệt (x. Cv 2:27.31), hình phạt (Kh 20:14). Đối nghịch với “âm phủ” là trời, nơi cư ngụ của Thiên Chúa (x. 10:15).
Tình cảnh khốn khổ của người giàu có (16:24-31)
Nội dung của phân đoạn nầy được trình bày qua hình thức đối thoại với ba lần thỉnh cầu của ông (cc. 24.27-28.30) và ba lần từ chối của Abraham (cc.25-26.29.30). Qua cuộc đối thoại ngắn nầy, tình cảnh khốn khổ của người giàu có được trình bày thêm.
Lời thỉnh cầu thứ nhất (c. 24): “xin thương xót tôi” (c. 24). Lời nầy trong Luca chỉ xuất hiện trong trình thuật người mù thành Giêricô (18:38.39), và mười người phong cùi. Người giàu có đang ở trong tình trạng vô phương cứu chữa như những người nầy. Hai yếu tố khác cho thấy tình cảnh của ông đã bị đảo ngược. Trước đây ông chỉ mặc áo đỏ tía và lụa là, giờ đây ông đang chịu cực hình, odynaomai, giữa lửa cháy bao quanh ông, trong khi Lazarô ở nơi mát mẻ. Trước đây, ông nằm trên giường tiệc, Lazarô bên dưới và chờ mong những mảnh bánh vụn rơi xuống từ bàn tiệc của ông. Giờ đây, ông phải nhìn lên mới thấy Lazarô, và nài xin một giọt nước từ ngón tay của Lazarô nhỏ vào liệng lưỡi ông.
Trong câu trả lời của Abraham (cc. 25-26) Luca nhắc lại quá khứ “hãy nhớ lại”. Ông nói đến “điều tốt” và điều xấu”, như là sự tương phản giữa hai người (c. 25). “Điều tốt” ở đây là của cải đời nầy (6:45; 12:18.19). Sau đó, Luca khẳng định điều đang xảy ra, “bây giờ” hai người. Động từ “an ủi” (c. 25) nhắc lại lời “Khốn cho các người giàu có, vì các người đang được an ủi” (6:24). Người giàu có đã được an ủi đời nầy, thì đời sau chịu khốn khổ; trong khi Lazarô được an ủi đời sau. Đây là một trong những cách hành động của Thiên Chúa (1:52). Tiếp theo Abraham nói đến sự phân cách tuyệt đối và khách quan giữa hai người (c. 26). Một “vực thẳm” “được đặt ra” (ở thể thụ động); không thể có hiệp thông giữa hai bên. Không thể qua lại với nhau được. Như thế người giàu có bị loại hẳn khỏi sự hiệp thông với Abraham.
Lời thỉnh cầu thứ hai (cc.27-28.29): trong lời thỉnh cầu nầy, ông không nghĩ đến bản thân nữa, vì ông đã ý thức tình trạng khốn khổ không thể cứu vớt của mình. Bởi đó, ông kêu xin Abraham hãy nghe lời ông xin. Ông nghĩ đến những người anh em của ông đang còn sống trên trần gian, và muốn tránh cho họ khỏi rơi vào nơi khốn khổ như ông. Lời đáp của Abraham là chỉ cho thấy phương thế cứu khỏi nơi ấy, chính là nghe lời Môsê và các ngôn sứ (c. 29; 24:44). Mệnh lệnh “Hãy nghe” phải dẫn đến việc làm theo điều đã nghe. Mệnh lệnh nầy cho thấy cách gián tiếp là người giàu có đã không nghe lời Môsê và các ngôn sứ nên đã không để ý đến những người nghèo (Lv 19:9-10; Đnl 14:29; 15:7-11). Ông đã không quan tâm nghe lời của Thiên Chúa, nên không biết ý muốn của Người. Ông chỉ quan tâm đến sự giàu có và sự thụ hưởng của ông.
Lời thỉnh cầu thứ ba (cc. 30.31): người giàu có cố gắng nài xin thêm một lần nữa cho anh em nhà của ông. Ông nghĩ anh em của ông sẽ “hoán cải” nếu như được người chết hiện ra. Tuy nhiên sự hoán cải không được thực hiện bởi phép lạ, mà bởi lời rao giảng về Chúa Giêsu (x. 11:32; Cv 2:36-38; 3:18-19). Hoán cải là mở lòng đón nhận, tin vào Thiên Chúa và thay đổi cuộc sống. Do đó, nếu không nghe lời Môsê và các ngôn sứ, không thể hoán cải được. Người chết có hiện ra chỉ vô ích mà thôi.
Luca sẽ không dừng lại ở việc mô tả hậu quả của việc sử dụng của cải không đúng theo ý Thiên Chúa. Ông sẽ nói đến cách hành động tích cực đối với của cải. Đó là phân phát cho người nghèo (4:18; 18:22; 19:8; 21:3). Cuộc sống ở trần gian không là tất cả. Số phận đời sau tùy thuộc cuộc sống hôm nay. Muốn được an ủi đời sau, phải thi hành ý Thiên Chúa hôm nay. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. G. Nguyễn Cao Luật)
Những bức tranh tương phản
Tin tức trên báo chí cho biết: khoảng vài phần trăm dân số địa cầu nắm giữ gần hết tài nguyên của thế giới, trong khi đa số dân còn lại chỉ được hưởng dùng một số nhỏ. Hố phân cách giữa các miền của thế giới càng lúc càng rộng thêm, số người giàu chỉ tăng lên rất ít, còn số người nghèo càng lúc càng tăng lên rất nhiều. Hình ảnh đó là một sự kiện rõ ràng của thế giới hôm nay, và cũng xuất hiện tại nhiều quốc gia, nhiều vùng đất, nhất là tại các thành thị.
Dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay nêu lên một bức tranh với nhiều mầu sắc tương phản. Hình ảnh được vẽ lên là những thế giới đóng kín, những vũ trụ tách biệt, với những vực sâu ngăn cách. Từ thế giới này sang thế giới kia, không có mối liên lạc nào: mọi cây cầu đã bị phá đỗ.
- Bức tranh thứ nhất: Cuộc sống thường nhật. Một người giàu, ăn mặc sang trọng, yến tiệc linh đình ; và một người nghèo tên là La-da-rô, không có gì che thân, không có gì để ăn. Người giàu ở trong nhà và người nghèo ở ngoài cổng. Ở giữa, một cánh cửa đóng kín.
Người giàu không có tên. Chỉ biết rằng ông ta có nhiều của cải, nhiều đến dư thừa. Thái độ, cách cư xử của ông: không để ý đến ai khác, ngay cả người nghèo đang ăn xin ở cổng nhà.
Còn người nghèo có tên là La-da-rô, có nghĩa là Thiên Chúa giúp đỡ. Anh sống mà dường như đã chết. Thế nhưng anh bị đói, anh đợi chờ và mong ước được sống. Cuộc sống của anh có những lỗ hổng và vì vậy, Thiên Chúa có thể can thiệp.
Khi cái chết phủ xuống: người giàu được đem chôn, còn người nghèo được đem lên trời.
- Bức tranh thứ hai: Tại thế giới kẻ chết: trời cao và âm phủ. Người nghèo được hạnh phúc trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham: anh đã chết, mặc dù chưa được hưởng điều Thiên Chúa hứa ; nhưng anh đã thấy từ xa và đón chào các điều ấy, vì đã xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất (x. Dt 11,13).
Còn người giàu phải chịu muôn vàn đau khổ. Ông muốn được hiệp thông, muốn được chia sớt một giọt nước, nhưng không thể được: không có lối qua, dù đó là vì lòng bác ái, dù đó là những người đang thèm khát. Giữa hai thế giới có một vực sâu, một vực sâu rất lớn. Trước kia người nghèo không có gì cả: anh chỉ chờ đợi và khát mong được sống ; người giàu thu hẹp đời mình vào trong những của đang nắm giữ. Bây giờ thì ngược lại, nhưng không còn thay đổi gì được nữa.
- Bức tranh thứ ba: Vẫn tại thế giới kẻ chết. Và ở phần cuối là cuộc sống con người trên trần gian, nơi năm anh em của người giàu đang sống. Giữa hai thế giới này, có thể thông thương được. Thế nhưng chỉ là điều vô ích, vì tâm hổn của những con người đang sống ấy đã bị đóng kín.
Và dụ ngôn kết thúc với một câu nói có liên hệ đến con người thời nay: "người chết có sống lại, họ cũng chẳng tin đâu."
Cuộc sống trần gian chưa phải là tất cả
Dụ ngôn trước hết nhắm đến quan niệm sai lầm của những người biệt phái, vì họ coi thịnh vượng đời này là dấu chỉ ơn lành của Thiên Chúa và nghèo nàn là dấu chỉ bị ruổng bỏ. Dưới mắt họ, thế giới bên kia chỉ có ích lợi thứ yếu. Ở trần gian này, nếu mọi sự tốt đẹp, có nghĩa là con người đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, còn nếu ngược lại, thì chính vì con người đã phạm tội. Đó là nguyên nhân người biệt phái chế giễu Đức Giê-su vì Người đòi hỏi phải từ bỏ lạc thú ở đời này. Yêu sách này của Đức Giê-su gây ra mâu thuẫn gay gắt với xác tín tôn giáo của họ. Dụ ngôn đã khai triển sự tương phản đó một cách không kiêng nể.
Thịnh vượng trần thế không minh chứng giá trị đạo đức và sự hậu đãi của Thiên Chúa, cũng như nghèo khó không phải là kết quả của sự bại hoại luân lý và việc Thiên Chúa ruổng bỏ. Người biệt phái đã quan niệm sai lầm. Thiên Chúa phán đoán hoàn toàn khác. Đó là ý nghĩa của dụ ngôn.
Vì thế, không nên căn cứ vào một vài chi tiết của dụ ngôn để rút ra những hệ luận thiêng liêng: chẳng hạn các hình khổ dành cho người phú hộ hưởng thụ là biểu hiện những khổ hình của hoả ngục. Đó chỉ là một hình ảnh. Việc người nghèo an nghỉ trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham cũng thế ...
Đàng khác, dụ ngôn còn muốn cho thấy rằng cảnh ngộ trần thế và bên ngoài không liên quan gì tới trạng thái tâm hổn. Người ta vẫn thường cho rằng người giàu có, ăn sung mặc sướng là người biết tổ chức tốt cuộc đời của mình, và người ta thương hại kẻ nghèo phải sống lệ thuộc vào người khác, không có khả năng thoả mãn những ước vọng ở đời. Tuy nhiên, Thiên Chúa không xét đoán như thế. Đây là một trong những quy tắc nền tảng của Ki-tô giáo.
Như vậy, dụ ngôn không hề có ý mô tả cuộc sống tương lai cũng như tình trạng đời này. Dụ ngôn muốn chứng tỏ rằng cuộc sống hiện tại của người giàu chẳng có giá trị gì cả. Chính sự hiện diện của người nghèo nói lên điều đó: anh đã muốn phá vỡ nếp sống an toàn giả tạo của người giàu, kêu mời sự hiệp thông, nhưng không được, và thế là hết ...
Kể cả người chết sống lại
Không có ai, kể cả người chết sống lại, có thể buộc một người đang sống phải yêu mến. Lời Chúa, luật lệ và các ngôn sứ đã trình bày rõ ràng những điều gì cần được thực hiện. Mặc khải đã có sẵn, cuộc đời là nơi duy nhất để cho những điều đó thành hiện thực.
Hoàn cảnh sống ở đời chưa phải là tất cả. Vực sâu lớn nhất của cuộc đời chính là từ khước yêu mến.
Chỉ có thái độ quan tâm để ý đến người khác mới có thể tạo nên những cây cầu, những lối đi để từ đó đưa đến sự hiệp thông, đến tình liên đới.
Khi biết quan tâm đến những dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đang được bày tỏ trong cuộc đời con người ; khi biết lắng nghe lời giáo huấn của tổ phụ Áp-ra-ham cũng như của các ngôn sứ ; khi biết để ý đến người khác, dù chỉ là những cái nháy mắt, những lời thì thầm, và khi biết nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa torng những biến cố, thì tất cả đều thay đỗi, tất cả đều dễ thương, tất cả đều trở thành cơ hội để hành động.
Biết để ý quan tâm, biết nhạy cảm, đó là biết bước chân ra khỏi lòng mình đang bị đóng kín với nỗi trống rộng của riêng mình.
Vậy mà, trong cuộc đời, vẫn có biết bao rào cản đã được dựng nên ; vẫn có những người đi qua cuộc đời một cách vô tình, không cần chú ý đến ai khác, vẫn có những tiếng kêu than bị bỏ quên, vẫn có những lời cầu cứu không được đáp trả ... Người ta vẫn thường dành nhiều thời giờ để bảo vệ mình hơn là để ý đến người khác. Người ta vẫn không ngừng xây những bức tường kiên cố để che chắn cho mình, đang khi lẽ ra cần phải mở ra những cánh cửa, cửa ra vào lẫn cửa sỗ.
Cuộc đời vẫn có nhiều La-ra-rô đang than thở, bị bỏ quên, trong lúc không ít người giàu có lại lẩn quẩn, lại đóng kín trong những nỗi sợ hãi của riêng mình. Thực là những bức tranh tương phản.
Hôm nay, lúc này là thời gian để ra khỏi mình: hãy mở toang những cánh cửa, những cánh cửa của hiệp thông, của liên đới. Chỉ có những người đang sống mới mở được, những người khác, kể cả người chết sống lại, không thể nào mở được.
* * *
Lạy Chúa Giê-su, Chúa là Người Nghèo,
Chúa chẳng có gì cả,
dù là một viên đá gối đầu.
Chúa chẳng có gì cả,
dù chỉ là một cơn gió nhẹ,
vinh quang của Chúa chính là sự trần trụi
cả một cái áo tả tơi của đứa trẻ mổ côi,
cũng còn đẹp hơn.
.....
Chúa là người ăn xin với bộ mặt ẩn giấu,
là người không có chỗ trên mặt địa cầu.
Nhưng đàng sau sự nghèo khó,
là ánh sáng rực rỡ.
Phỏng theo R.M. Rilke. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)
Chủ nhật tuần trước, Chúa Giêsu dạy chúng ta: "Anh em hãy dùng tiền bạc mà mua lấy bạn bè, để khi hết tiền bạc, anh em sẽ được họ mời đón vào sự sống đời đời".
Chủ nhật hôm nay, Chúa kể dụ ngôn về một người phú hộ giàu có không biết sử dụng tiền bạc, để rồi phải chết đời đời trong chốn cực hình.
Ông phú hộ chịu cực hình trong cõi chết đời đời, không phải ông làm giàu bất chính, chuyên vơ vét và bóc lột người khác. Nhưng chỉ vì ông đã thờ ơ lãnh đạm, không nhìn thấy Lazarô nghèo khó cần giúp đỡ đang nằm ngoài cổng nhà ông mà thôi. Vâng, chỉ đơn giản có thế thôi, đã đủ làm cho ông phải chịu cực hình.
Tiền bạc đã làm mờ mắt tâm hồn ông, khiến ông chỉ nhìn thấy mình mà không nhìn thấy Lazarô. Ông giống như một người soi gương, chỉ thấy hình bóng mình trong gương mà không nhìn thấy người khác.
Tiền bạc đã tạo ra một hố ngăn cách giữa ông và người nghèo Lazarô mà cái cổng là một biểu tượng.
Một bên là thế giới cực kỳ xa hoa dư thừa vận toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Còn bên kia là thế giới nghèo khó bần cùng, nằm lay lắt trước cổng nhà giàu muốn được ăn những của dư thừa từ bàn tiệc của nhà giàu rớt xuống mà chẳng ai thèm cho, chỉ có mấy con chó thỉnh thoảng đến liếm ghẻ chốc xoa dịu, an ủi ông thôi!
Sự phân cách chênh lệnh đó, đã được cái chết đón nhận và thể hiện một cách rõ nét. Chỉ có điều là thay ngôi đổi chủ và mang tính cách vĩnh viễn:
Trước kia Lazarô đói nghèo bất hạnh ước một mẩu bánh vụn cũng không được, giờ đây ông no đầy hạnh phúc đời đời nơi lòng tổ phụ Abraham.
Trước kia người phú hộ giàu có dư thừa, giờ đây phải đói khát túng thiếu đời đời nơi hoả ngục, túng thiếu đến nỗi một giọt nước nhỏ làm mát lưỡi cũng chẳng thể có.
Trước kia trên trần gian, ông phú hộ và Lazarô bị ngăn cách bởi một cái cổng, thì giờ đây giữa họ là một vực thẳm lớn, khiến hai bên không thể qua lại giúp đỡ nhau được. Đó là khoảng cách giữa Thiên đàng và Hoả ngục.
Đối với ông phú hộ thì Hoả ngục chỉ kéo dài và tiếp nối cái tình trạng đói khổ mà vô tình ông đã tạo nên cho người nghèo Lazarô trên trần gian. Như thế, Hoả ngục là do ông tự xây cho mình chứ không phải Thiên Chúa.
Tóm lại: Con người tự tạo lập Thiên đàng hay hoả ngục cho mình ngay từ trên trần gian này tuỳ thuộc vào cách thế con người xử dụng tiền bạc.
Ông phú hộ giàu có một cách chính đáng, nhưng vô tâm vô tính, nhắm mắt làm ngơ, không quan tâm giúp đỡ những người chung quanh đã có một kết cục bi thảm như vậy, thì những người làm giàu một cách bất nhân bất chính, làm giàu trên xương máu, mồ hôi và mạng sống của người khác sẽ ra sao? Chắc chắn sẽ không khá hơn ông phú hộ trong dụ ngôn Tin mừng.
Lạy Chúa, xin giúp con biết dùng của cải và tài năng Chúa ban để mưu cầu hạnh phúc cho mình và cho tha nhân ở đời này và đời sau. Amen. [Mục Lục]
Dụ ngôn người phú hộ và Lazarô mô tả một bức tranh tương phản, một khoảng cách rất gần mà lại rất xa, hai con người với hai cuộc đời, hai hoàn cảnh trái ngược nhau.
Người phú hộ dư ăn dư mặc, Lazarô nghèo nàn đói lả. Người phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc, Lazarô rách nát tả tơi. Người phú hộ nhà cao cửa rộng, Lazarô lê lết bên cổng ăn xin. Người phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, Lazarô không có một chút bánh để ăn. Người sống chốn thiên đàng dương thế, kẻ chịu cảnh hoả ngục trần gian.
Hai con người ấy thật gần nhau trong khoảng cách, chỉ cách nhau có cái cổng, một cái cổng luôn khép kín như lòng người giàu có. Nhưng họ lại thật xa nhau trong tình người.
Thánh Luca với ngòi bút sắc bén, linh hoạt, đầy thương cảm đã nói lên một nghịch lý cuộc đời. Đọc dụ ngôn ai cũng cảm thấy xót xa chua chát, xót xa cho người giàu và chua chát cùng kẻ nghèo. Khoảng cách giữa hai người thật xa vời vợi trong một lối so sánh đầy ấn tượng: người phú hộ sống trong nhung lụa, hưởng thụ mê say đang khi kẻ bất hạnh nằm chờ chút bánh rơi xuống từ bàn ăn mà chẳng có, chỉ có mấy con chó đến liếm ghẻ chóc. Phú hộ giàu có của cải nhưng lại nghèo nàn tình người. Lazarô nghèo khổ mà chẳng được xót thương. Cả hai đều nghèo tình thương, kẻ không ai thương, người không thương ai.
Cái chết đến làm đổi thay tất cả. Cái chết đồng đều cho mọi người nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau. Một cuộc hoán đổi thật thú vị. Lazarô từng lê lết dưới chân bàn ăn được đưa lên mây trời, còn người ngồi nơi cao sang với mâm cao cỗ đầy bị đày xuống vực thẳm. Lazarô được hưởng phúc thiên đàng, phú hộ phải trầm luân hoả ngục. Một lần nữa, dụ ngôn mô tả khoảng cách nghìn trùng giữa hai người mà bên này muốn qua bên kia không được và bên kia muốn qua bên này cũng không thể. Lazarô hạnh phúc trong cung lòng tổ phụ Abraham. Phú hộ chịu cực hình nài xin với Abraham “sai Lazarô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát vì ở đây bị lửa thiêu đốt.”
Khoảng cách nơi cuộc sống trần gian sẽ được hoán đổi vị trí sau cái chết. Vậy phải chăng dụ ngôn muốn trình bày vấn nạn: hễ sung túc giàu có ở đời này thì bất hạnh cực hình ở đời sau? Hôm nay khốn khổ đói nghèo thì mai sau được hạnh phúc sung sướng? Có phải đó là lối an ủi ru ngũ, là thuốc phiện xoa dịu những người nghèo hãy chấp nhận, hãy an phận? Đời này cùng khốn, rách rưới thì đời sau sẽ hưởng phúc thiên đàng?
Chắc chắn Thánh Kinh không bao giờ trình bày như thế. Giàu có không phải là tội lỗi và nghèo khổ không là giấy thông hành vào Nước Trời. Trình thuật dụ ngôn rất ăn khớp với toàn bộ tác phẩm, trong đó Luca thường đề cập đến người giàu kẻ nghèo để khuyến cáo hay khích lệ tuỳ trường hợp. Dụ ngôn nằm trong chủ đề của chương 16 giáo huấn về việc sử dụng tiền bạc của cải làm sao để đạt tới ơn cứu độ.
Người phú hộ bị luận phạt hoả ngục không phải vì ông ta giàu có mà vì ông đã khép cửa khép lòng, sống dửng dưng, làm ngơ trước nổi khổ đau của người khác. Cái tội phú hộ mắc phạm là phớt lờ người nghèo, là “mackeno” (mặc kệ nó) trước sự cùng khốn của tha nhân. Phú hộ không la mắng chửi bới, không đuổi Lazarô ra khỏi nhà, nhưng điều đáng trách là ông ta không thèm ngó nhìn người ăn xin van lơn. Tội của người phú hộ chính là tội hững hờ. Ở cạnh bên nhau mà không thấy nhau, không biết nhau, không giúp đỡ nhau thì thật là quá vô tình, quá hờ hững. Hoàn cảnh của Ladarô quá khốn khổ thế mà người phú hộ vẫn hững hờ đến nỗi Ladarô phải chết vì đói đang khi ông ta lại quá dư thừa, thành ra tội hững hờ của người phú hộ trở thành tội nặng làm cho ông ta đáng phạt trong hỏa ngục.
Trong bài đọc 1, Tiên tri Amos với lối nói cay độc chua chát đã tiên báo những sự trừng phạt khủng khiếp dành cho những kẻ giáu có đang hưởng thụ xa hoa mà không biết xót thương người khốn khổ. Của cải vật chất đã trở thành bức tường khép kín, người giàu có sống an toàn mãn nguyện trong không gian riêng mình. Chính họ đã tạo ra khoảng cách vực thẳm. Họ không cần Thiên Chúa cũng chẳng cần biết đến tha nhân, khoảng cách đó lớn dần và kéo dài đến đời sau. Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do con người đã tạo ra ở đời này.
Lazarô không phải vì nghèo khổ mà được trọng thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì biết chấp nhận số phận hẩm hiu và đặt niềm cậy trông phó thác nơi Thiên Chúa. Danh xưng Lazarô theo Luca có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi”. Người nghèo biết tin tưởng và phó thác, điều đó mới mang lại cho họ ơn phúc làm con tổ phụ Abraham, cha những kẻ tin.
Con người đi đến vong thân khi sống thiếu tình thương và thiếu tình người. Khi khép kín lòng mình với Thiên Chúa, chỉ bằng lòng với của cải trần gian mà quên đi cuộc sống vĩnh cữu; và khi khép kín lòng mình với tha nhân, mắt không xót thương, lòng không xúc động trước các nghịch cảnh thì chính họ ngày càng nghèo nàn tình thương. Dụ ngôn phú hộ và Lazarô là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, hưởng thụ trần gian mà quên đi tình Chúa tình người. Dụ ngôn còn là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng tình liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.
Chúa Giêsu đã dùng tình thương để xoá bỏ khoảng cách giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người khi Ngài làm người, một người nghèo giữa những người nghèo. Ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo, giữa nô lệ và tự do giờ đây không còn nữa, tất cả là anh em của nhau, là con cùng một Cha trên trời. Mọi người được mời gọi sống Tin Mừng, sống liên đới với nhau và với người nghèo.
Lý tướng Kitô giáo không phải là yêu mến sự khó nghèo mà là yêu thương người nghèo khó. Chúa Giêsu là Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó, Ngài luôn yêu thương và sống liên đới với người nghèo. Vì vậy người môn đi theo Chúa Giêsu chính là để trở nên giống Ngài. Tông huấn Giáo Hội Á Châu dạy rằng: Người đời dễ tin hơn tình liên đới với kẻ nghèo, nếu chính Kitô hữu biết sống giản dị theo gương Chúa Giêsu. Sự đơn sơ trong cách sống đức tin sâu xa và tình yêu không giả vờ đối với mọi người, nhất là người nghèo và bị bỏ rơi, đó là những dấu chỉ Tin mừng trong hành động (GHAC số 34).
Vẫn còn quá nhiều người nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo văn hoá. Người Kitô hữu được mời gọi sống quãng đại, liên đới giùp nhau thăng tiến. Hãy mở rộng lòng cho yêu thương, cho chia sẽ trong cuộc sống hàng ngày. Đừng sống hững hờ, cần rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh đời bất hạnh, biết quãng đại chia sẽ với những người thiếu thốn.
Lạy Chúa, xin mở mắt mở, mở tai vả mở trái tm con để con thấy, con nghe, con biết sẽ chia niềm vui nổi buồn, hạnh phúc đau khổ với hết mọi người. Amen. [Mục Lục]
Dụ ngôn người quản gia, dạy chúng ta biết cách sử dụng của cải trần gian sao cho đúng. Dụ ngôn người phú hộ và Ladarô nghèo khó, cho thấy người phú hộ đã sử dụng của cải cách sai lầm. Dụ ngôn được chia làm ba phần.
Phần I: Cái cổng, một vực thẳm
Mở đầu, Đức Giêsu đưa ra hai nhân vật: Người giàu không được nêu tên, người nghèo tên là Ladarô, tiếng Dothái, El'azar có nghĩa là Thiên Chúa phù hộ.
Không chỗ nào nói, Ladarô là một con người nhân đức, anh chỉ được giới thiệu là "một người nghèo". Cũng vậy, không chỗ nào nói, ông nhà giầu là kẻ ác ôn, đã vơ vét của cải một cách mờ ám, đã chiếm đoạt, đã bóc lột một cách bất chính, đã lợi dụng hay ngược đãi Ladarô. Đức Giêsu không nói, ông nhà giầu không bố thí cho Ladarô. Chúa cũng không bảo Ladarô là người đức hạnh và ông nhà giầu là người xấu xa. Chỉ đơn giản, ông nhà giầu là người giầu, Ladarô là người nghèo. Ông nhà giầu đã không nhìn thấy Ladarô nghèo đói khốn cùng, đang nằm ở ngoài cổng. Cánh cổng là một vực thẳm khủng khiếp ngăn cách giữa ông và Ladarô nghèo khó. Hai vũ trụ, hai thế giới song song. Một bên là thế giới cực kỳ xa hoa dư thừa, với ông nhà giầu "mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình". Bên kia là thế giới thiếu thốn đến thảm hại của người nghèo khó: "Nằm trước cổng, mụn nhọt đầy mình, thèm được những thứ trên bàn ăn của viên phú hộ rơi xuống ăn cho no cũng không được. Chỉ có mấy con chó đến liếm ghẻ chốc anh ta". Thật là một cảnh trái ngược giầu và nghèo. Cảnh đó vẫn diễn ra trên thế giới, trên các thành phố, làng xóm xưa cũng như nay.
Ngày 3 tháng 7 năm 1980, tại Sao Paulô ở Braxin, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã áp dụng dụ ngôn này vào thế giới hiện đại, ngài nói: "Những làn sóng di dân chen chúc nhau trong những khu nhà ổ chuột. Trẻ em, thanh niên, người lớn không tìm thấy không gian sống để phát triển... Bên cạnh đó những khu phố với những cao ốc, ở đó, người ta sống với mọi tiện nghi hiện đại... Sự phát triển nhiều khi trở thành một sự thuật lại không lề dụ ngôn ông nhà giầu và Ladarô nghèo khó".
Phần II: Một vực thẳm không thể vượt qua
Cảnh hai cho thấy cả hai nhân vật của chúng ta ở thế giới bên kia. Cái chết, thay vì làm cho họ xích gần nhau, lại làm cho khoảng cách giữa họ trở thành vĩnh viễn. Sự thật cho thấy, từ nay tình thế của họ đã hoàn toàn đảo ngược. Ladarô kẻ ăn xin xưa kia trên trần gian, nay được thiên thần đem vào lòng Abraham, hưởng phúc vô tận. Còn viên phú hộ, trái lại, trước đây hưởng thụ giầu sang chẳng đoái hoài gì đến người nghèo nằm trước cửa nhà mình, nay phải ở dưới âm phủ, đang chịu cực hình.
Đức Giêsu dùng những hình ảnh, những tư tưởng người đương thời, để nói về thế giới bên kia cho người ta hiểu, Ngài không thể nói khác được. Thế giới bên kia được hình dung như một âm phủ bao la (Sheol) với những thân thể, những cái lưỡi, ngón tay, lửa, nước. Nơi những kẻ bị kết án nhìn từ xa, những người được ưu tuyển, cách mình bằng một vực thẳm. Trong cực hình, người giầu năn nỉ tổ phụ Abraham sai Ladarô. Ông nêu rõ tên, cái tên ông chẳng biết đến khi còn sống ở trên đời, nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi ông cho mát.
Nhưng muộn quá, cuộc chơi đã mãn. Cả Abraham lẫn Ladarô, chẳng ai làm được gì cho ông nữa. Cái cổng nhà ông đã phân chia hai thế giới trở thành vực thẳm. Cái chết đã làm cho nó trở thành vực thẳm vĩnh viễn không thể vượt qua.
Theo Hugues Cousin nhận định: "Vực thẳm chia cách, giữa những người đang được hưởng hạnh phúc quanh Abraham và những kẻ phải chịu cực hình dưới âm phủ, thực ra chỉ là sự nối dài của vực thẳm đã được đào sâu giữa cổng nhà nơi Ladarô đã nằm và bàn tiệc cao lương mỹ vị mà suốt đời viên phú hộ kia đã chẳng làm gì để lấp cho đầy". Hình phạt khủng khiếp ở hỏa ngục đơn giản là khoảng cách mà kẻ giầu có đặt ở giữa họ với Thiên Chúa, và ở giữa họ với những người khác. Xa cách Thiên Chúa như ở trần thế người ta vẫn xa cách, xa cách những người khác, như ở trần gian người ta vẫn làm. Chúng ta ghi nhận: hỏa ngục dường như chỉ là sự kéo dài của tình trạng này, chính con người tự phân xử mình ngay từ trần gian. Mỗi người chúng ta đang kiến tạo Thiên đàng hay hỏa ngục cho mình. Mỗi lần ta mở lòng cho Thiên Chúa hoặc cho những người khác, là chúng ta bước một bước lên thiên đàng. Mỗi lần ta khép kín mình trong chính mình là bước một bước xuống hoả ngục. Trần gian này là nơi rèn luyện bước đầu của Thiên đàng và hỏa ngục.
Phần III: Hãy nghe Lời Chúa, đừng chần chừ nữa
Xin cho mình không được, người giầu có chợt nhớ đến năm người anh em còn sống trên trần thế, họ cũng đang rơi vào thói ăn chơi hưởng thụ, không quan tâm gì tới người nghèo đang nằm trước cửa nhà mình. Cả bọn năm người cũng đang lơ lửng trước tai họa, nếu không có ai đó cảnh báo cho biết. Nghĩ vậy người giầu cất tiếng: "Xin tổ phụ sai anh Ladarô đến cảnh cáo họ, kẻo họ cũng sa vào chốn cực hình này. Bởi, nếu có sự can thiệp của ai đó từ cõi chết hiện về, họ sẽ ăn năn sám hối".
Chỉ là ảo tưởng, nếu ở hỏa ngục, ai đó có một chút tình yêu dù là nhỏ xíu, cũng được Chúa tha thứ, không bị kết án. Bởi lẽ Chúa là tình yêu và tình yêu vô tận.
Ở đây chỉ là một cảnh dựng để đưa vào câu trả lời theo sau là lời đáp của Abraham: "Chúng đã có Maisen và các ngôn sứ, chúng cứ nghe lời các vị đó". Vâng, người ta luôn luôn đòi một dấu chỉ khác thường: "Ông hãy làm cho chúng tôi một phép lạ để chúng tôi tin"... "Ông hãy xuống khỏi thập giá, nếu ông là Con Thiên Chúa... Ông hãy gieo mình từ nóc đền thờ xuống đi". Một số Kitô hữu luôn luôn tiếp tục dựa vào những phép lạ và những lần hiện ra. Người giầu xin cho Ladarô hiện về. Thế nh¬ưng, sự sống lại của Ladarô em trai của Mácta và Maria ở Bêtania không những không thuyết phục đ¬ược những ngư¬ời Pharisêu và các giáo trư¬ởng, mà con thúc đẩy họ có quyết định loại trừ Đức Giêsu (Ga 11,45-53). Con đ¬ường chân chính duy nhất đến với đức tin không phải là một phép lạ nhãn tiền, mà là sự khiêm nh¬ờng lắng nghe Lời Chúa (Maisen và các ngôn sứ).
Hugues Cousin viết: "Đại diện cho lối suy nghĩ khá phổ biến trong thế giới hôm nay, ông nhà giầu t¬ưởng rằng một phép lạ sẽ làm đ¬ược cái mà Kinh Thánh không làm đ¬ược. Lầm to! Một phép lạ cho dù phép lạ người chết sống lại, cũng không thể làm thay lòng đổi dạ những kẻ cứng lòng không đón nhận sứ điệp của lề luật và các ngôn sứ. Ngay trong Hội thánh, từng tuyên xưng Đức Giêsu chết và sống lại, cũng tồn tại một điều như thế. Biết bao phen chính chúng ta chẳng mơ tưởng giả như được chứng kiến phép lạ Chúa Phục sinh hiện ra, chắc chắn mình sẽ ăn năn sửa đổi đời sống... Trong lúc Tin Mừng đang có đó, ngày cũng như đêm, trong tầm tay chúng ta. Chỉ khi biết nghe lời Chúa, con người mới có thể hoán cải... Đó chính là sứ điệp lưu truyền lâu đời, có sẵn tại trung tâm lề luật và các ngôn sứ". [Mục Lục]
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Ngày xưa, bên Tàu có một ông vua tự cho mình là người yêu nước thương dân, nhưng lại chẳng bao giờ để ý đến cảnh khổ của dân chúng. Trái lại, ông chỉ biết đến yến tiệc linh đình, trang hoàng cung điện, xây cất dinh thự, sưu tầm những kỳ hoa dị thảo, để mong được nở mày nở mặt với lân quốc.
Một hôm, nhà vua nghe nói ở một ngôi chùa trong nước có một loại hoa hồng quí hiếm, từng bông hoa to đẹp rực rỡ, bao phủ cả một khu vườn. Nhà vua báo tin cho vị sư trụ trì là ông sẽ đến thăm để biết thứ hoa hồng quí lạ. Khi được tin báo và được biết giờ vua sẽ đến, vị sư liền cắt tất cả những đóa hồng xinh tươi đổ vào hố rác chỉ để lại một bông duy nhất đang thắm nở.
Vào đến vườn, nhà vua lấy làm lạ vì thực tế khắc hẳn với tin đồn. Khi biết được sự việc, nhà vua hỏi vị sư tại sao làm như thế. Vị sư từ tốn trả lời:
- Thưa bệ hạ, nếu thần để tất cả các hoa nở rộ trên cành, bệ hạ sẽ không thưởng thức được vẻ đẹp của từng bông hoa. Vì thần biết bệ hạ chỉ có thói quen nhìn đám đông chứ không để ý đến từng cá nhân.
Thiên Chúa của chúng ta không có thói quen chỉ nhìn đám đông, nhưng Người quan tâm đến từng con người. Thiên Chúa yêu thương con người không có tính cách chung chung, nhưng Người chăm sóc cho từng người một. Mỗi một con người là một nhân vị, có nhân phẩm cao quí. Mỗi một con người là một tác phẩm tuyệt vời của Người, với những ơn riêng mà người khác không có được. Mỗi một con người là một bông hồng rực rỡ sắc mầu, thơm ngát hương hoa.
Người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay sở dĩ phải trầm luân muôn kiếp, vì ông ta đã không nhìn người nghèo khó Ladarô với cái nhìn ấy. Thậm chí ông cũng chẳng thèm nhìn con người khốn khổ ngày ngày lê lết bên cổng nhà ông.
Người phú hộ phải “chịu cực hình” không phải vì ông nhiều của cải, nhưng vì ông đã không san sẻ của cải cho người thiếu thốn, ngay cả những của thừa thãi trên bàn tiệc cũng chẳng đến tay người nghèo.
Người phú hộ phải tống xuống biển lửa không phải vì ông đã làm ra nhiều của cải, nhưng vì ông đã quá cậy dựa vào tiền của, trong khi người nghèo khó chỉ biết cậy dựa vào Chúa; Ladarô có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”.
Vậy tội của người phú hộ chính là tội làm ngơ, tội phớt lờ, tội không nhìn, không nghe, không thấy những Ladarô đang van xin cứu giúp trong cơn túng quẫn cùng cực. Tội của người phú hộ chính là tội thiếu sót, tội đã không làm những gì lẽ ra mình phải làm cho một ai đó đang cần trợ giúp. Bác sĩ Albert Schweitzer, người đã bán hết gia tài kếch xù của ông, xây một bệnh viện và dấn thân cứu giúp những con người cùng khổ nhất Châu Phi đã đặt ra câu hỏi cho chính mình: “Làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc trong khi có biết bao người đang đau khổ?”
Sẽ có một ngày tất cả chúng ta bước vào một thế giới mà giấy thông hành không phải là tiền của nhưng chính là tình yêu. Chỉ có những ai yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em mới được bước vào.
Sẽ có một ngày người phú hộ chẳng còn yến tiệc linh đình, chẳng còn trận vui tới sáng, trận cười suốt đêm, nhưng sẽ phải đuổi khỏi bàn tiệc và lao xuống hỏa hào muôn kiếp.
Sẽ có một ngày người Ladarô nghèo khó chẳng còn lê lết dưới đất đen, không còn nhặt những miếng bánh vụn nơi bàn tiệc người phú hộ, nhưng sẽ được nâng lên “trong lòng Abraham” vui hưởng hạnh phúc muôn đời.
Lời giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên ngày 2.10.1979 đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Chúng ta không thể thờ ơ vui hưởng của cải và tự do của chúng ta nếu bất cứ ở vùng nào đó, người nghèo khó Ladarô của thế kỷ 20 vẫn còn đang đứng chờ chúng ta ngoài cửa… Các bạn đừng bao giờ bằng lòng với hành vi chỉ cho họ những mẩu bánh vụn nơi bàn tiệc. Các bạn chỉ nên lo lắng cho đủ phần chính yếu của cuộc sống mà thôi chứ đừng tìm cách sống cho sung túc dư dật, để nhờ đó các bạn có thể giúp đỡ những người nghèo khổ. Đồng thời, các bạn hãy đối xử với họ như những thực khách trong gia đình các bạn”.
Lạy Chúa, thánh Tôma Aquinô đã dạy: “Những người giàu có đã đánh cắp của người nghèo khó khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”. Xin cho chúng con biết san sẻ cho nhau, để trái đất này trở nên sung túc và yêu thương, vì giàu có thật là yêu thương và nghèo nàn thật là ích kỷ.
Xin dạy chúng con bí quyết làm giàu bằng cách chia sẻ cho nhau những của cải Chúa ban. Amen.[Mục Lục]
Có hai nhân vật trong câu chuyện này. Trước hết là người giàu có, tạm gọi là Dives. “Dives” tiếng La-tinh, có nghĩa là “giàu có”. Ông ta sống trong sự giàu sang. Ông ăn uống no say mỗi ngày trong một đất nước mà thường dân may mắn lắm mới có được một bữa no bụng mỗi tuần.
Nhân vật thứ hai là anh Lazarô nằm trước cổng, ngửa tay xin của ăn dư thừa. Anh rất đau yếu bệnh hoạn. Mình mẩy anh đầy ghẻ chốc. Anh yếu đuối cho đến nỗi không đủ sức chống đỡ những con chó ngoài đường đến quấy phá, liếm ghẻ chốc của anh.
Thời đó trên bàn ăn không có dao nĩa và khăn lau, bởi vì người ta ăn bằng tay. Trong những gia đình phong lưu, những miếng bánh mì rẻ tiền được vứt bỏ sau bữa ăn. Họ rửa tay bằng cách lau chùi tay trong bánh mì và bánh mì dơ bẩn được thu nhặt cho vào thùng đựng rác. Chính đó là những mảnh vụn bánh mì mà người nghèo khổ Lazarô đang mong đợi để nuôi sống mình.
Câu chuyện anh Lazarô và ông Dives nhắc tôi nhớ lại mẩu chuyện một người đàn bà đĩ thoã và ông trưởng giả đi chung trong một chuyến tàu. Người đàn bà nói: “Ông ơi,ông sặc mùi hôi.” Ông kia đáp lại: “Thưa bà, tôi xông mùi thối, còn bà đánh hơi.”
Do đó, anh Lazarô là hình ảnh của sự nghèo nàn khốn khổ, còn ông nhà giàu là hình ảnh của sự bê tha ăn uống. Nên để ý điểm này là ở đây người ta nhắc đến tên người đàn ông nghèo khó nhưng người giàu sang thì lại không có tên. Trong nền văn hoá ngày nay, người giàu sang cũng như người nổi tiếng thì đều có danh xưng, còn người nghèo hèn thì vô danh tiểu tốt.
Điều đó cho thấy Chúa Giêsu chú trọng đến những người mà xã hội ruồng bỏ. Ngài đã dành nhiều thời giờ cho những kẻ bị bỏ rơi, những người vô danh tiểu tốt, chứ không phải với những người nổi tiếng.
Vai trò đảo ngược
Rồi cả hai người đều chết. Người giàu có rơi xuống hoả ngục, còn anh Lazarô lên thiên đàng, ở trong lòng tổ phụ Ápraham. Câu chuyện đã diễn tiến theo cuộc đối thoại giữa ông nhà giàu với tổ phụ Ápraham.
Từ dưới vực sâu hoả ngục, người giàu có đã kêu lên: “Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con và sai anh Lazarô nhúngđầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!” (Lc 16, 24).
Tổ phụ Ap-ra-ham đã trả lời: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Lazarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Lazarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.” (Lc 16, 25-26)
Ông nhà giàu lại thưa: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Lazarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!” (Lc 16, 27). Ông Ápraham đáp: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.” (Lc 16, 31)
Khỏi phải nói ra, ai cũng rõ là người giàu có đã đối xử có phần nào tàn nhẫn với anh Lazarô. Nhưng xét theo nhiều khía cạnh, ông nhà giàu không phải là một người xấu. Ông đã không bạo hành đối với anh Lazarô bằng lời nói, như nhiếc mắng anh đáng xuống hoả ngục. Ông cũng không xua đuổi anh Lazarô, không cho nằm trước cổng nhà mình. Ông cũng không báo cáo với cảnh sát, hoặc với những người kiểm tra vệ sinh về anh ta như là một nguy cơ đối với sức khoẻ của công chúng.
Ông không chống đối việc anh Lazarô chìa tay ra xin thức ăn thừa và cũng không chỉ thị cho đầy tớ ném bánh mì dơ ở nơi khác. Vấn đề là mỗi lần Dives đi ra hay đi vào nhà thì đều phải đi qua nơi anh Lazarô nằm trước cổng.
Tội lơ là chểnh mảng
Ông Dives không bao giờ nhận ra anh Lazarô. Ông không để ý tới anh Lazarô trong những năm tháng đó, khi anh ngồi ăn xin trước cổng nhà ông và ngay cả khi ở dưới hoả ngục, ông cũng không đếm xỉa đến anh. Ông vẫn không thay đổi. Những người ở trong hoả ngục không thay đổi bao giờ.
Phần người giàu có, ông nghĩ về anh Lazarô không khác gì hơn ngoài một sứ giả, qua câu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Lazarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!” (Lc 16, 27).
Anh Lazarô chỉ là một con người tùy tiện đối với ông phú hộ, chỉ là một thứ khí cụ được sử dụng mà thôi. Anh không phải là một con người đáng được kính trọng. Lazarô chỉ là một đồ vật được sử dụng và đó là lý do tại sao ông Dives đã xuống hoả ngục.
Tội lỗi của người giàu có đối với anh Lazarô là tội lơ là chểnh mảng – thứ tội quên làm! Những tội lỗi tệ hại nhất của chúng ta thường khi chính là những tội lơ là chểng mảng và đó là những tội mà chúng ta không bao giờ xưng ra. Nhưng đó chính là những tội của ông Dives. Có thể đó là những tội mà chúng ta không chút ý thức vì không gây nên thương tổn hay chết chóc cho ai.
Chúng ta có thể là ông Dives đối với người phối ngẫu, đối với cha mẹ, anh chị em, người làng giềng, đối với những trẻ nít non dại trong lớp học, đối với những bạn đồng nghiệp trở thành trò cười cho bất cứ cuộc đùa cợt nào. Không phải chúng ta cố ý tàn nhẫn. Điều đó hiếm khi xảy ra, vì chúng ta không đần độn hơn những người khác. Nhưng có những người trong cuộc sống chúng ta đangchết dần chết mòn về mặt thể xác, tình cảm, tinh thần và cả tâm linh nữa, bởi vì có những việc chúng ta có thể làm cho họ, nhưng đã không làm.
Tôi có dịp trò chuyện với một người láng giềng đã ra vào nhà thương như cơm bữa trong nhiều năm. Tôi hỏi cảm tưởng của ông như thế nào mỗi khi ra vào nhà thương như vậy. Ông trả lời: “Khi cha liên hệ với nhà thương lâu dài như con đây, cha sẽ nhận thấy điều khác biệt lớn lao giữa những kẻ đối xử với cha như một con người và những kẻ đối xử với cha như một trường hợp y khoa trong bệnh viện.”
Lòng trắc ẩn
Rồi đây khi tôi gặp gỡ một người ăn xin hay người nghiện ngập, tôi sẽ để ý đến họ. Tôi sẽ nhận ra họ như một con người và tỏ ra kính trọng họ. Đồng thời, một việc thật chính đáng, có thể làm được là tôi sẽ hỏi tên họ. Tôi có thể trả lời “không” khi họ xin tiền, nếu tôi nói một cách dịu dàng, bởi vì tôi biết rằng tiếng “không” cũng là một từ ngữ của yêu thương!
Bài học của Thánh Luca nhấn mạnh điểm này: chỗ đứng của chúng ta để được cứu rỗi tùy thuộc nơi chỗ đứng của lòng trắc ẩn chúng ta trước mặt anh chị em chúng ta. [Mục Lục]
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’ – Veritas)
Một câu chuyện kể rằng, có một em thiếu nhi con nhà giàu, học giỏi và đạo đức đến cầu nguyện với Chúa rằng, con chúc tụng và tạ ơn Chúa đã cho con sinh ra trong một gia đình đạo đức và hạnh phúc. Nhưng tại sao Chúa lại cho người bạn thân của con phải cực khổ, gia đình nghèo khó, bố hắn là lao động chính trong gia đình nay bị đau nặng. Mấy anh chị em vừa phải bán vé số, bán báo vừa đi học nay phải nghỉ vì không đóng học phí. Chúa không thưởng bạn của con sao?
Chúa trả lời: Con thật là một thiếu nhi ngoan, một người bạn tốt biết quan tâm đến người khác, biết nghĩ đến người bạn kém may mắn hơn mình. Nhưng này con, con hãy nhớ rõ điều này là chính vì Ta thương nó mà Ta đã dựng nên con và cho nó kết bạn với con.
Đã có lần Chúa Giêsu tuyên bố: “Người nghèo khó thì luôn luôn ở với các ngươi”. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn về người phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khó là một thực tế của cuộc sống trong xã hội trần gian, và đó cũng là phần nào hệ quả của Nước Trời mai sau. Hai hình ảnh trái ngược nhau luôn đi kèm với nhau, một bên là giàu có sống trên nhung lụa, ngày ngày yến tiệc linh đình, còn một bên là cùng khổ, ghẻ lác và nghèo đói. Một bên là quằn quại trong lửa hỏa ngục, còn một bên là hạnh phúc ngồi trong lòng Abraham trên thiên đàng. Nếu chỉ đọc bài Tin Mừng này với bài đọc I trích sách tiên tri Amos chúng ta tưởng có dị ứng sai lạc với những người giàu có và an phận trong sự khốn nạn của bần cùng. Đừng nghĩ rằng, Nước trời chỉ dành cho những người nghèo, còn những người giàu phải trầm luân dưới hỏa ngục. Chúng ta hãy đọc kỹ lại bài đọc II trích thơ thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gởi cho Timôthêu thì chúng ta mới thấy rõ ý nghĩa của bài Tin Mừng này.
Giàu có chưa phải là hạnh phúc đích thực của con người. Có biết bao nhiêu người giàu có đã chẳng được bình an đó sao? Thậm chí có người phải vào tù ra khám, có những gia đình phải tan nát đó sao? Và cũng đừng nghĩ rằng, người giàu có đương nhiên là bị loại ra khỏi Nước Trời. Thực tế lịch sử đã chứng minh cho chúng ta rằng, như thánh nữ Elizabeth, hoàng hậu nước Bồ Đào Nha; thánh Louis, vua nước Pháp. Họ là những vua chúa, hoàng hậu sống trên nhung lụa và đầy quyền lực, vậy mà họ đã nên thánh. Chúng ta cũng không nên cực đoan một chiều hiểu Nước Trời chỉ dành cho những người nghèo khổ để rồi chúng ta trở nên lười biếng, sống mãi trong sự bần cùng, nghèo đói, khổ đau. Nhưng Nước Trời và hạnh phúc đích thực như thánh Phaolô đã xác tín chính là kiên vững trong đức tin và sốt sắng trong lòng mến. Nó hệ tại ở việc lắng nghe Lời Chúa và tuân giữ giới răn của Ngài. Điều này đẵ được lặp đi lặp lại nhiều lần bằng nhiều cách trong các thời đại qua những ngôn sứ, đặc biệt qua Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Chúng ta không thể nào an phận trong khó nghèo, chờ đợi được như Ladarô ngồi vào lòng Abraham để nhìn cảnh cực kỳ nhốn nháo nơi âm phủ. Chúng ta lại càng không thể như anh em nhà phú hộ trong Tin Mừng chờ đợi một phép lạ mới chịu tin và sống giới răn của Chúa. Nhưng phải biết đón nhận và tạ ơn những hồng ân Chúa ban, để ta sống trở nên thánh thiện và công chính hơn.
Thánh thiện chính là tin tưởng vào lòng yêu thương của Thiên Chúa, là biết quan tâm và quảng đại chia sẻ với người khác một cách vô vị lợi, không tính toán, không đòi hỏi, không lợi dụng.
Quả thật, không có cái giàu nào cho bằng cái giàu về tình thương và cũng không có cái nghèo nào cho bằng cái nghèo về tấm lòng. Tuy nhiên, ơn Chúa không phải lúc nào cũng dễ chịu, nhưng đòi hỏi chúng ta biết can đảm đón nhận và tạ ơn. Cũng như thánh thiện không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng chúng ta phải cố gắng kiên trì tập luyện và thi hành. Vì đó chính là con đường đưa đến với Chúa và được hạnh phúc không những cho đời sau mà cho cả đời này nữa. Còn có biết bao nhiêu người như Ladarô nghèo khó xung quanh chúng ta, đang chờ đợi chúng ta yêu thương đón nhận và chia sẻ. Và rồi còn có biết bao cái nghèo cõi lòng mà chúng ta phải tích lũy làm giàu, đó là lòng yêu thương, lòng quảng đại, sự nhẫn nại và hiền hòa.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta trở nên người nghèo của Tin Mừng, để chúng ta khiêm tốn trước tình thương của Thiên Chúa và đón nhận ân sủng của Ngài, cho mỗi người chúng ta trở nên giàu có về lòng nhân ái, để chúng ta quảng đại với hết mọi người.
Xin mọi người chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin. [Mục Lục]
Nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ: “Hai đứa trẻ” đã viết:
“Hai đứa bé cùng chung nhà một tuổi
Cùng ngây thơ, khờ dại, như chim con
Bụi đời dơ chưa vẩn đục hồn non
Cùng trinh tiết như hai tờ giấy mới”.
Hai đứa trẻ xem ra giống nhau vô cùng, cùng ngây thơ, khờ dại và hồn nhiên, nhưng lại quá khác xa nhau:
“Ồ lạ chửa! Đứa xinh tròn mũm mĩm
Cười trong chăn và nũng nịu nhìn me.
Đứa ngoài sân, trong cát bẩn bò lê
Ghèn nhầy nhụa, ruồi bu trên môi tím!
Đứa chồm chập vồ ôm ly sữa trắng
Rồi cau mày: "Nhạt lắm! Em không ăn!".
Đứa ôm đầu, trước cổng đứng treo chân
Chờ mẹ nó mua về cho củ sắn!
Đứa ngây ngất trong phòng xanh mát rượi
Đây ngựa nga, đây lính thổi kèn Tây.
Đứa kia thèm, giương mắt đứng nhìn ngây
Không dám tới, e đòn roi, tiếng chửi!” (Tố Hữu-Hai đứa trẻ)
Đó cũng là bức tranh hiện sinh của xã hội con người ngày hôm nay, khi sự chênh lệch ngày một quá lớn giữa các nước trên thế giới, và giữa những người quá giàu và quá nghèo. Người ta ước tính tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển.
Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất. Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh cho cả thế giới trong một thời gian dài.
Khi nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô, chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới.
Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị, giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.
Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực. Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc. Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày, vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống. Dụ ngôn của Chúa nhật 26 năm C lại một lần nữa cho chúng ta thấy sự liên đới, cách sử dụng tiền của Chúa ban quan trọng biết bao cho phần rỗi đời đời của mỗi người.
Liên đới trong trách nhiệm chia sẻ
Ông phú hộ giàu có xét cho cùng cũng chẳng có tội tình gì. Nhà của ông làm tiệc, linh đình trong hoan lạc, ngây ngất lẫn men nồng, đắm say trong yến tiệc. Ông mặc gấm vóc lụa là, người hầu kẻ hạ. Ông sung sướng hưởng thụ những gì mình có. Chung quy lại, trước mặt mọi người ông chẳng có gì để lên án. Thế nhưng chuyện không dễ như vậy. Oái ăm thay, lại có kẻ: “mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà ông giàu có, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no”(Lc 16,20). Ông nhà phú hộ đáng ra phải lưu tâm đến một Lazaro nghèo khó đang cần đến sự giúp đỡ của mình. Trong thế giới toàn cầu hóa, trách nhiệm liên đới luôn là một đòi hỏi cấp bách. Người ta không thể dửng dâng và đứng nhìn những La-za-rô đang chết dần chết mòn trong những nỗi thống khổ của họ. Cũng như ông Phú Hộ, con người sẽ bị án phạt khi sống vô cảm và thiếu sự chia sẻ cho những hoàn cảnh éo le trong cuộc đời. Tài sản mà nhân loại đang sở hữu chính là do Thiên Chúa ban một cách nhưng không. Người Phú Hộ đã sai lầm khi cho rằng mình có quyền hưởng những gì mình thích, mà không hề biết quan tâm đến một số phận của một con người. Người đó không đâu xa mà là nằm ngay trước cổng nhà mình. Thiếu trách nhiệm với tha nhân, nhất là trong tình liên đới đại đồng. Ông Phú Hộ đã trầm luân trong bể khổ, mà không thể nào quay lại được.
Liên đới trong trách nhiệm yêu thương
Người Việt Nam có những câu ca dao rất đẹp trong tình yêu thương nhau:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống mà chung một giàn”
Hoặc: “ Những điều phủ lấy giá gươm,
Người trong một nước phải thương nhau cùng”…
Vâng đúng như vậy, giới răn thương yêu là cốt lõi của mọi lề luật, bác ái chính là khởi xuất từ yêu thương, mà yêu thương chính là ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Những người giàu có nếu biết dùng những của cải chóng qua ở đời tạm này, mà làm những việc lành phúc đức, thì họ sẽ trở nên rạng ngời trước Danh Thánh Chúa. Ông Phú Hộ mời rất nhiều khách để dự tiệc. Nhưng tiếc rằng người nghèo khó ngay trước cổng nhà mình thì không được quan tâm giúp đỡ. Giống như nhận xét của Mẹ Terexa “Cái xấu lớn nhất trong thế giới ngày nay là thiếu vắng tình yêu – sự thờ ơ khủng khiếp đối với người lân cận ngày càng phổ biến” (Mẹ Têrêxa).
So sánh hai cuộc đời của nhà Phú hộ và ông La-za-rô để cho thấy:
- Hai lối sống khác nhau đã làm nên hai điều trái ngược. Nếu như người nghèo khó La-za-rô suốt đời phải sống trong túng cực, bị mọi người khinh chê thì khi chết, ông lại được trọn vẹn phần thưởng lớn lao ở trên Thiên đàng.
- Ông Phú Hộ thì ngược lại lúc sống đã hưởng thụ hết bao điều tốt đẹp trên trần gian, thì số phận của ông lại là một kết cục bi thảm hoàn toàn. Ông phải trọn kiếp trong đau đớn của ngày phán xét chung thẩm.
Lạy Chúa xin cho chúng con biết giúp đỡ mọi người, thực thi các giới răn Chúa dạy, và luôn quảng đại chia sẻ với những anh chị em đang trong những cảnh đời vô cùng éo le. Amen. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn)
"Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư; người giàu có lại đuổi về tay trắng" (Lc 1:52-53). Lời kinh Magnificat của Đức Maria trong ngày thăm viếng chị họ Elisabet đã được Chúa Giêsu làm rõ nét hơn qua dụ ngôn "Phú ông và Lazarô."
Hai con người rất gần nhau trong không gian, nhưng lại rất xa nhau trong cảnh sống. Phú ông mặc toàn gấm vóc, lụa là; người ăn mày Lazarô nghèo nàn, rách nát. Phú ông ở nơi nhà cao cửa rộng; Lazarô lê lết bên cổng nhà giàu. Phú ông ngày ngày yến tiệc linh đình; Lazarô không một chút bánh cầm hơi. Phú ông sống trong thiên đàng dương thế; Lazarô chịu cảnh hoả ngục trần gian.
Thế giới của hai người chỉ cách nhau bằng một chiếc cổng, ấy thế mà vẫn như xa nhau vô cùng. Người nhà giàu chẳng khi nào bước qua chiếc cổng đó để đi vào thế giới người nghèo. Ông ta chôn mình trên nhung lụa và hưởng thụ mê say. Đang khi kẻ bất hạnh nằm chờ chút bánh rơi mà không được; anh ta thèm thuồng nhìn những miếng bánh "lau tay" đi vào miệng bầy chó. Mấy con chó này còn "có lòng" hơn phú ông khi không "cắn gậy ăn mày," nhưng đến liếm các mụn ghẻ cho anh ta.
Thời xưa, trên các bàn ăn của người Do thái chưa hề có dao, muỗng, nĩa và khăn lau tay như ngày nay. Người ta dùng tay để lấy và cầm thức ăn. Tại nhiều nhà sang trọng hay trong những nơi quyền quí, người ta có thói quen lau tay ngay trên những miếng ruột bánh mì mà sau bữa ăn sẽ được vứt đi. Đây là thứ bánh "lau tay" mà Lazarô khao khát trông chờ. Song hoài công! Phú ông vẫn làm ngơ, vô tình.
Nhưng rồi cái chết ập đến làm đổi thay tất cả. Kẻ từng lê lết dưới chân bàn ăn thì được đưa lên mây trời; còn người ngồi nơi cao ráo lại bị tống xuống vực sâu. Lazarô được hưởng phúc thiên đàng; còn Phú hộ thì trầm luân hoả ngục. Phải chăng Kinh thánh muốn nói: hễ sung túc đời này sẽ bất hạnh đời sau và khốn khổ hôm nay sẽ được hạnh phúc ngày mai? Không hẳn thế, vì giàu sang không phải là tội và nghèo khổ cũng chưa chắc là tấm vé thiên đàng.
Ân phúc là việc người nghèo biết tựa nương, cậy trông Thiên Chúa. Lazarô là danh xưng duy nhất mà Thánh Luca đã đặt cho nhân vật "ăn mày" trong dụ ngôn trên. Lazarô có nghĩa là "Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi." Như thế, kẻ ăn mày này đã biết tin tưởng và phó thác đời mình cho Thiên Chúa dù đang nghèo rớt mồng tơi. Chính niềm tin tưởng và phó thác này đã mang lại cho anh ta ơn phúc làm con tổ phụ Abraham--cha những kẻ tin.
Còn người phú hộ, ông ta đâu có bóc lột hay ngược đãi gì kẻ khác; ông đâu có ra lệnh tống cổ tên ăn mày khỏi cổng nhà mình; ông cũng chẳng đánh đập hay ăn chận gì của Lazarô, vậy cớ sao lại bị đoạ đày trong chốn cực hình như vậy?
Thái độ đáng trách của Phú ông là đã làm ngơ trước nỗi thống khổ của người bên cạnh. Tội của ông là sự dửng dưng, coi như không có sự hiện diện của Lazarô. Chẳng phải vì người phú hộ đã làm điều gì thất nhân ác đức, nhưng vì ông ta đã không làm gì cả cho kẻ khốn cùng.
Không phải chỉ có làm điều xấu mới là tội, nhưng tránh không làm điều tốt cũng là tự đưa mình xa cách Thiên Chúa và tha nhân. Mắt không chút xót thương, lòng không hề vương vấn đã làm cho hố sâu ngăn cách giữa ông và Lazarô rộng lớn đến nỗi không thể qua được.
Người nghèo phải đau khổ vì sự bần cùng đã đành, nhưng người giàu cũng sẽ phải khốn nạn vì sự giàu sang, nếu trong đó không có tình yêu và xót thương.
Một nhà tư tưởng đã chỉ ra hai nguy cơ của sự giàu có thiếu tình thương như sau:
Một là nó khép kín lòng mình với Thiên Chúa: người ta bằng lòng với những lạc thú trần gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều tối quan trọng.
Hai là nó khép kín lòng mình với tha nhân: người ta không còn nhìn thấy người nghèo nằm ngay bên cổng nhà mình.
Hoả ngục chính là sự kéo dài của tình trạng khép kín này: người ta vẫn mãi xa cách Thiên Chúa và tha nhân. Hố ngăn cách càng được đào sâu và rộng bao nhiêu, đời sau người ta sẽ hết phương trở về bấy nhiêu. Thế nên thật chí lý khi nói rằng: "Con người đã tự phán xử chính mình ngay ở đời này"(Noel Quesson).
Nếu tôi yêu mến và liên kết với Thiên Chúa qua tha nhân, ngày kia tôi sẽ hiệp hoan Nước Trời. Trái lại, nếu tôi ích kỷ trong hưởng thụ riêng tư, chẳng hề quan tâm đến việc chia sẻ phúc lộc mình có, thì nỗi đơn độc và khổ đau sẽ là sản nghiệp đời đời cho tôi.
Dụ ngôn "Phú ông và Lazarô" là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, say hưởng trần gian, quên đi tình Chúa tình người. Nó còn là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.
Mẹ Têrêsa Calcutta có nói: "Ngay trong giờ phút lâm chung, bạn và tôi, bất kể chúng ta là ai, đã từng sinh sống nơi nào, Kitô hữu hay là lương dân, tất cả chúng ta, những người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa bằng bàn tay yêu thương của Ngài, chúng ta sẽ phải đứng trước nhan Giavê và được xét xử tuỳ theo những gì đã sống và làm cho người nghèo. Chính lúc này các cân lượng mẫu mực cho việc phán xét sẽ được đưa ra."
"Chúng ta phải càng ngày càng ý thức hơn rằng người nghèo chính là niềm hy vọng của nhân loại, bởi vì chúng ta sẽ được xét xử theo cách thức mà chúng ta đã cư xử với họ. Chúng ta sẽ đối đầu với thực tế khi được triệu về trước ngai Thiên Chúa. Và Ngài sẽ nói: "Xưa ta đói, ta trần truồng, ta không nhà cửa. Và những gì ngươi đã làm cho một trong những kẻ bé mọn chính là đã làm cho Ta."
"Kẻ bé mọn" không chỉ là những người đang nghèo nàn về vật chất, nhưng còn là những ai đang thiếu thốn về tinh thần. Có người nghèo cơm ăn áo mặc, nhưng cũng không ít người nghèo giáo lý, kiến thức, cảm thông, an ủi, thứ tha. vì chẳng ai trao ban.
Thế nên, hôm nay, sau khi nghe tiếng Chúa, bạn và tôi, chúng ta đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy rộng mở cho yêu thương và sẻ chia. [Mục Lục]
----------------------------------------------------------------------------------------------
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn